2023
Thiên thần là ai? Các ngài được tạo dựng nên để làm gì?
Ts. Trần Mỹ Duyệt
Mỗi khi đọc Kinh Tin Kính đến câu: “Tôi tin kính một Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình”, chúng ta thường nghĩ đến những tạo vật vô hình là các thiên thần. Vậy thiên thần là ai? Các ngài được dựng nên để làm gì? Và làm cách nào chúng ta có thể biết được các ngài cũng như những sinh hoạt của các ngài?
NHỮNG TẠO VẬT VÔ HÌNH
Theo Thánh Kinh và căn cứ trên nhiều truyền thống tôn giáo, các thiên thần là những tạo vật thiêng liêng, vô hình vượt xa hơn con người là những tạo vật hữu hình: “Vì Ngài đã tạo nên con người thấp hơn các thiên thần một chút, và đã đội trên con người triều thiên danh dự và vinh quang” (Thánh Vịnh 8: 5).
Các thiên thần hơn con người một chút vì các ngài là những tạo vật thần linh. Trong khi đó, con người là những tạo vật hữu hình có hồn và có xác. Tuy nhiên, Thiên Chúa “đã đội trên con người triều thiên danh dự và vinh quang”, vì Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể đã mặc lấy hình hài và bản tính của con người.
Các thiên thần có nhiều nhiệm vụ và nhiều vai trò trong Vương Quốc của Thiên Chúa:
– Chầu chực trước ngai tòa Thiên Chúa.
– Phụng sự Thiên Chúa.
– Làm sứ giả của Thiên Chúa.
– Nối kết giữa Thiên Chúa và con người.
– Được chỉ định canh giữ, hướng dẫn con người, và cầu bầu cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa.
Những tôn giáo như Do Thái Giáo (Judaism), Kitô Giáo (Christianity), và Hồi Giáo (Islam) luôn coi các thiên thần như những tạo vật thần linh nối kết giữa Thiên Chúa và con người. [1] Các thiên thần không phải là nam hay nữ theo sự hiểu biết và kinh nghiệm về phái tính của con người. Tuy nhiên, mỗi khi các ngài được nhắc tới trong Thánh Kinh, từ ngữ dùng để dịch “angel” luôn luôn là nam giới. Cũng vậy, mỗi khi xuất hiện, thiên thần luôn xuất hiện như những người nam. Ngay cả tên gọi của các ngài cũng mang giới tính nam. [2]
PHẨM TRẬT CÁC THIÊN THẦN
Có 250 lần các thiên thần được nhắc đến từ sách Sáng Thế Ký tới sách Khải Huyền. Tuy nhiên, Thánh Kinh không đưa ra con số chính xác các thiên thần được Thiên Chúa tạo dựng.
Trong Khải Huyền, Thánh Gioan viết: “Rồi tôi nhìn lên và nghe tiếng của nhiều thiên thần, con số hàng ngàn ngàn, và hàng vạn vạn” (Khải Huyền 5:11). Linh mục Nguyễn Thế Thuấn trong bản dịch Kinh Thánh của ngài, ngài dịch là: “vạn vạn ngàn ngàn”. Trước đó, trong thị kiến tiên tri Daniel đã nhìn thấy “hàng ngàn ngàn phục vụ Ngài; vạn vạn đứng trước Ngài” (Daniel 7:10). Và trong Thư Do Thái cũng nhắc đến con số đạo binh thiên thần hàng hàng lớp lớp (Do Thái 12:22). Hiểu là con số các thiên thần trên trời nhiều vô số kể.
Ngoài số đông các thiên thần tốt lành, Kinh Thánh còn nói đến những thần sa ngã. Đó là các thiên thần đã bị đuổi khỏi thiên đàng vì sự bất tuân phục. Satan là thủ lãnh những đọa thần này. Con số một phần ba các thiên thần sa ngã được nói tới trong Khải Huyền: “Đuôi nó quét xuống một phần ba tinh tú trên trời và ném xuống đất” (Khải Huyền 12:4). Nhiều phiên bản dịch khác nhau, nhưng đa số đồng ý biến cố xảy ra liên quan đến việc Satan phản nghịch lại với Thiên Chúa.
Pseudo-Dionysius, thần học gia và triết gia Công Giáo thế kỷ thứ 5 hoặc thứ 6 trong tác phẩm De Coelesti Hierarchia (On the Celestial Hierarchy) và Thánh Thomas Aquinas trong Tổng Luận Thần Học (Summa Theologiae) trích dẫn từ Tân Ước, đặc biệt trong thư Êphêsô 1:21và Côlôsê 1:16 đã phân định các thiên thần thành ba đẳng, mỗi đẳng gồm ba loại tùy theo vai trò và nhiệm vụ của các thần. Thánh Bonaventure tóm lược 9 phẩm thiên thần theo sau những việc làm của các ngài như: loan tin, truyền đạt, và hướng dẫn, dùi dắt, thúc đẩy, ra lệnh, đón nhận, mặc khải, và xức dầu. Về phẩm trật các thiên thần, ngài cho rằng chỉ 5 vị đầu tiên được sai xuống bởi Thiên Chúa để làm sáng tỏ chính các ngài giữa thế giới vật chất, trong khi bốn phẩm thiên thần cao nhất luôn ở trên trời trước tôn nhan Thiên Chúa.
– Ba đẳng thiên thần
Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Côlôsê đã vẽ ra một bức tranh mờ mờ về đẳng cấp các thiên thần: “Nhờ ngài mọi sự được tạo dựng trên trời và dưới đất, vô hình và hữu hình, dù là Ngai Thần (Thrones) hay Quản Thần (Dominions), Lãnh Thần (Rulers), Quyền Thần (Authorities) – mọi sự đều được ngài tạo dựng và cho ngài” (Côlôsê 1:16). Minh Thần (Cherubim) thì được nhắc đến trong Sáng Thế Ký khi Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Địa Đàng và đặt Cherubim cằm gươm canh giữ (Sáng Thế Ký 3:24).
Về đẳng cấp, các thiên thần được chia thành ba đẳng:
– Đẳng I (cao nhất) gồm các:
Luyến Thần (Seraphim [Seraphimy]),
Minh Thần (Cherubim [Cheruvimy]),
và Bệ Thần hay Ngai Thần (Thrones [Prestoly]).
Seraphim thông đạt tình yêu và sự thật của Thiên Chúa. Ngai Thần truyền đạt mọi sự đến các đẳng thiên thần khác. Gần kề bên Thiên Chúa nhất là Seraphim. Tên Seraphim có nghĩa là “sốt mến” hoặc các thần lửa, bởi vì Thiên Chúa là ngọn lửa của tình yêu.
– Đẳng II (trung bình) gồm các:
Quản Thần (Dominions [Gospodstva]),
Dũng Thần (Virtues),
và Quyền Thần (Powers /Authorities).
Nắm giữ quyền cai quản trên những thần khác, và hướng dẫn các nhà lãnh đạo mặt đất, được thiết lập bởi Thiên Chúa, để họ biết cai trị khôn ngoan.
– Đẳng III (thấp nhất) gồm các:
Lãnh Thần (Principalities/Rulers),
Tổng Thần (Archangels),
và Thiên Thần (Angels).
Là những thần hiểu biết sự khôn ngoan từ các đẳng cao hơn, có liên quan đến những thực tế cụ thể, và phục vụ hữu hiệu trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa, như những luật lệ tự nhiên, và hướng dẫn các dân nước và từng cá nhân. [3]
– Chín phẩm thiên thần
Từ ba đẳng, các thiên thần thuộc về một trong chín phẩm, mỗi phẩm gồm nhiều thiên thần:
1. Luyến Thần (Seraphim) – Còn được gọi là Thần Sốt Mến, cao nhất trong chín phẩm thiên thần. Phẩm Seraphim gồm bốn thần. Mỗi Seraphim có 4 mặt [4]. Có hai Seraphim được nhắc tên là Seraphiel và Metatron (trong đó, Seraphiel được miêu tả là có cái đầu của phượng hoàng).
Các Seraphim luôn chầu chực, bay quanh ngai tòa Thiên Chúa, tung hô, chúc tụng Thiên Chúa: “Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa”. Thần Seraphim có sáu cánh: hai cánh che mặt, hai cánh che chân và hai cánh để bay (Isaia 6:1-7). Vì ở gần bên Chúa và luôn được cháy sáng, ánh sáng phát ra từ các Seraphim chói lọi đến nỗi không một ai, thậm chí là các thiên thần khác, có thể nhìn trực tiếp được. [5]\
2. Minh Thần (Cherubim) – Cherubim [Cheruvimy] tiếp theo sau Seraphim trong chín phẩm thiên thần. Các Cherubim mô tả giống con người về bề ngoài, có hai cánh. Trong Tân Ước, các Cherubim thường được gọi là những người trời.[6]
Luôn bảo vệ vinh quang Thiên Chúa. Tên Cherubim có nghĩa là: chan hòa sự khôn khoan, ánh sáng, vì từ các vị – sự sáng với ánh sáng hiểu biết Toàn Năng và thông tri những mầu nhiệm của Thiên Chúa, đã ban xuống ơn khôn khoan và tỏa sáng về sự thông hiểu Thần Linh thật.
Cherubim được nhắc đến nhiều trong Thánh Kinh như Sáng Thế Ký 3:24, Sách Êdêkien 10:12-24, Sách Các Vua quyển thứ nhất 6:23-28 và sách Khải Huyền 4:6-8. Ông Maisen đã cho đúc hai tượng Cherubim bằng vàng đặt ở đầu của hòm bia thánh. Sau này vua Salomon cũng tạc hai tượng Cherubim bằng gỗ ôliu nạm vàng, đứng hai bên cạnh hòm bia, phủ cánh che rợp hòm bia. Vì thế, các Cherubim được gọi là các thiên sứ hộ giá và đứng đầu trong phẩm trật thiên sứ vì luôn kề cạnh bên Thiên Chúa. [7]
3. Bệ Thần (Thrones) [Prestoly] – Bệ Thần hay Ngai Thần là các thiên thần của sự khiêm nhường, sự bình an và sự phục tùng. Nếu các thiên thần phẩm trật dưới cần đến gần Thiên Chúa thì phải qua các Bệ Thần.
Thronos (tiếng Hy Lạp: θρόνος, “ngai vàng”) cũng xuất hiện trong Khải Huyền 11:16 và Thư gửi giáo đoàn Côlôsê 1:16. Theo thị kiến của tiên tri Êdêkien 1:15-21, các Bệ Thần được miêu tả dưới hình dạng những bánh xe, có nhiều mắt trên vành bánh “Khi các thần hộ giá dừng lại, các bánh xe cũng dừng lại, khi các thần hộ giá cất mình lên, các bánh xe cũng cất lên theo, bởi vì thần khí của sinh vật ở trong các bánh xe.” (Êdêkien 10:17).
Bệ Thần là biểu tượng cho công lý và quyền uy của Thiên Chúa. Cùng với Seraphim và Cherubim, các Bệ Thần không bao giờ ngủ để canh giữ cho ngai tòa của Thiên Chúa. [8]
4. Quản Thần (Dominions) [Gospodstva] – Dominionstiếng Latinh: dominationes, tiếng Hy Lạp: kyriotētes, là những thiên sứ phối hợp hoạt động của các thiên binh cấp dưới. Nhiệm vụ chính của các Quản Thần là giữ gìn vũ trụ theo đúng trật tự, đem công lý của Thiên Chúa tới những nơi bất công. Tỏ lòng thương xót của Ngài với con người bằng cách ban sức mạnh cho những nhà lãnh đạo các quốc gia.
Quản Thần được miêu tả với hình dạng giống như thần linh xinh đẹp, có đôi cánh lông vũ như hình tượng chung của các thiên sứ. Tuy nhiên, để phân biệt với các thần khác, các Quản Thần có thanh gươm ánh sáng gắn chặt vào đầu. [9]
5. Dũng Thần (Virtues) – Có nhiệm vụ giám sát sự chuyển động của các thiên thể để đảm bảo rằng vũ trụ tuân theo chuyển động tự nhiên. Virtutes có nghĩa là quyền năng, sức mạnh và uy lực, luôn sẵn sàng, dũng cảm thi hành những việc phi thường.
Dũng Thần còn được biết đến là các thần “chiếu sáng.” Ngoài tư cách là thần chuyển động, các Dũng Thần cũng giúp điều khiển thiên nhiên, các phép lạ, khuyến khích con người giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa, tăng thêm sức mạnh cho những nhân vật tài năng dưới trần gian. [10]
6. Quyền Thần (Authorities) [Vlasti] – Quyền Thần hay các Thiên Thần Chiến Binh vì chiến thắng sự dữ, không chỉ trong vũ trụ mà cả con người. Có quyền trên ma quỷ, ngăn cản sức mạnh của chúng, Quyền Thần cũng giúp con người chiến đấu với các đam mê và tật xấu để từ bỏ những cám dỗ do ma quỷ, thế gian, và xác thịt xúi giục (1 Phêrô 3:22, và Côlôsê 1:16). [11]
Quyền Thần giám sát sự phân chia năng lực giữa nhân loại, giữ vững ranh giới giữa thiên đàng và trần gian. Các Quyền Thần mang hình dạng rực rỡ màu sắc và sương khói mờ ảo. [12]
7. Lãnh Thần(Principalities)[Nachala] – Các Lãnh Thần có quyền trên các thiên thần cấp dưới và điều khiển các vị hoàn thành mệnh lệnh của Thiên Chúa (Côlôsê 1:16).
Các Lãnh Thần còn được gọi là Hoàng Thân hoặc Người Cai Trị vì trực tiếp theo dõi các tổ chức lớn, nhỏ, kể cả tầm mức các quốc gia và Giáo Hội, đồng thời bảo đảm việc hoàn thành ý muốn của Thiên Chúa. Khôn ngoan và quyền lực nhưng ở khoảng cách xa Thiên Chúa nhất trong các phẩm trật thiên thần để có thể giao tiếp với con người bằng những cách mà chúng ta có thể hiểu.
Lãnh Thần có hình đội một vương miện và mang theo một cây gậy. Nhiệm vụ của các ngài là thực hiện tấn phong cho những nhà lãnh đạo các xứ sở, gìn giữ thế giới vật chất, và giám sát các dân tộc. Lãnh Thần là những quan thầy và bảo hộ cho các vương quốc trên mặt đất. Ngoài ra, còn truyền cảm hứng và tư tưởng trong các lãnh vực nghệ thuật và khoa học. [13]
8. Tổng Thần (Archangels) – Theo truyền thống đã có từ những thế kỷ đầu, Giáo Hội tôn kính 7 Tổng Thần có tên là Michael, Gabriel, Raphael, Uriel, Camael, Jophiel, and Zadkiel. Ba vị đầu là Michael, Gabriel và Raphael được đặc biệt tôn tính đối với Kitô Giáo Latin, trong khi đó các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương kính nhớ cả 7 vị.
Ngoài ra, cũng theo truyền thống Lutheranism và Anglicanism có 5 vị tổng thần được tôn kính: Michael, Gabriel, Raphael, Uriel và Jerahmeel. Tuy nhiên Kitô Giáo Chính Thống Đông Phương (Oriental Orthodox Christianity) và Kitô Giáo Chính Thống Tây Phương (Eastern Orthodox Christianity) lại kính nhớ 8 vị, đó là Michael, Gabriel, Raphael, Uriel, Salathiel, Jegudiel, Barachiel, và Jeremiel. Bốn vị sau trong số này truyền thống Coptic đặt tên là Surael, Sakakael, Sarathael, và Ananael.
Ba Tổng Thần được Giáo Hội Công Giáo mừng kính vào ngày 29 tháng 9 là Michael, Gabriel và Raphael. Cả ba đều được nhắc tên trong Thánh Kinh vì những vị trí quan trọng của các ngài trong lịch sử cứu độ.
Michael (Micae) – “Ai bằng Thiên Chúa”.
Michael có nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa”. Giống như các Tổng Thần khác, Michael thiêng liêng, sức mạnh siêu phàm, nhanh như ánh sáng, không thể bị tổn thương, có giọng oai dũng, khả năng chiến đấu, dũng mãnh, và quyền lực để nói với các loài vật.
Hình ảnh của ngài được diễn tả trong Sách Khải Huyền: “Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Michael và các thiên thần của người giao chiến với con Rồng. Con Rồng cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến. Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không còn chỗ trên trời nữa. Con Rồng lớn bị xô nhào xuống. Nó là con rắn xưa, gọi là ma quỷ hay Satan, kẻ chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ. Nó bị xô nhào xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị xô nhào xuống với nó” (Khải Huyền 12:7-9).
Gabriel (Gabrien) – “Người của Thiên Chúa”.
Trong tiếng Hy Lạp “aggeslos” có nghĩa là “sứ giả.” Gabriel là một trong 7 tổng thần, và là một trong ba tổng thần được nhắc đến trong Luca 1:27-28, cùng với Michael (Khải Huyền 12:7-9), và Raphael (Tobit 12:15). Gabriel là “Sứ Giả của Thiên Chúa” và thuộc đẳng cao hơn trong các thiên thần khác.
Tên Gabriel có nghĩa là “Người của Thiên Chúa” trong tiếng Do Thái, hoặc “Thiên Chúa đã chiếu tỏ quyền năng”. Trong Thánh Kinh, Gabriel là sứ giả xuất hiện trong Cựu và Tân Ước. Biến cố nổi nhất là lần xuất hiện trong ngày ngài truyền tin cho Đức Maria (Luca 1:26-38; Mátthêu 1:20-24). Ngài cũng được cho là thiên thần xuất hiện bên Chúa Giêsu để an ủi Ngài trong lúc Chúa hấp hối ở vườn Gethsemane (Luca 22:43).
Raphael – “Thiên Chúa chữa lành”.
Raphael là tổng thần lần đầu tiên được nhắc đến trong sách Tobit và trong 1 Enoch, cả hai được dự đoán giữa thế kỷ thứ ba và thứ hai BCE.
Là một trong bảy Tổng Thần đứng trước ngai Thiên Chúa (Tobit 12:15), và là một trong ba vị được nhắc đến trong Phúc Âm.
Raphael có nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành”. Trong Sách Tobit, ngài tự nhận như “Azarias là con của Ananias tiền bối” thuộc dòng họ Tobit, đi cùng Tobit, con của Tobiah. Ngài đã chữa cho Tobiah khỏi mù và trừ quỉ Asmodeus ra khỏi Sarah, vợ tương lai của Tobit. Quỉ Asmodeus đã giết những người đàn ông đã cưới Sarah ngay trong đêm tân hôn trước khi động phòng.
Tổng Thần Raphael là bổn mạng của những người đi đường, những người mù lòa, bệnh tật, không gặp may mắn, y tá, y sỹ và nhân viên y tế. [14]
9. Thiên Thần (Angels) [Angely] – Các thiên thần là những thần trời gần nhất với thế giới và con người. Là người chuyển cầu lên Thiên Chúa và loan báo các sứ điệp cho con người trên thế gian (1 Phêrô 3:22). Một trong các đặc tính của các thiên thần là rất quan tâm và thân thiện trợ giúp những người cầu xin nâng đỡ.
Nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất của các thiên thần phục vụ như những sứ giả của Thiên Chúa đối với con người. Trong Cựu và Tân Ước, Thiên Chúa đã không ngừng nhắc lại và dùng các thiên thần để nói ý định của Ngài cho con người, thí dụ, với Abraham, Maisen, Jacob, Gideon, Daniel, Trinh Nữ Maria, Zachariah và Giuse, và nhiều vị thánh cũng như các tiên tri.
Kinh Thánh viết: “Người [Thiên Chúa] truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Thánh Vịnh 91:11-12). Ngoài các tổng thần, chúng ta có thiên thần bản mệnh, là những thiên thần được chỉ định để hướng dẫn và che chở cá nhân mỗi người. Thánh Thomas đồng ý với Thánh Jerome trong trích dẫn Phúc Âm Thánh Mátthêu cho rằng mỗi người chúng ta đều có một thiên thần bản mệnh (Mátthêu 18:10). Đó cũng là cách mà Ngài hằng ở bên chúng ta khi đối mặt với bão tố cuộc đời. Chúa Giêsu khi đề cập đến các thiên thần bản mệnh đã nói: “Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mátthêu 18:10). Lễ kính các Thiên Thần Bản Mệnh được cử hành vào ngày 2 tháng 10.
__________
Tham khảo
https://www.christianity.com/wiki/angels-and-demons/are-angels-male-or-female.html.
https://en.wikipedia.org/wiki/Hierarchy_of_angels
https://people.howstuffworks.com/9-types-of-angels.htm
5,7,8,9,12,13. Phẩm trật Thiê n sứ trong Kitô giáo. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
6,10,11. Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ beliefnet.com). Chín Phẩm Thiên Thần.
http://giaoxutanviet.com/chin-pham-thien-than/
14.Trần Mỹ Duyệt. Các Tổng Lãnh Thiên Thần. Facebook Duyet Tran
2023
Làm chứng cho những mối phúc & mối họa
Làm chứng cho những mối phúc & mối họa
Nền tảng của những mối phúc
Từ “beatitude” bắt nguồn từ beatus trong tiếng Latinh, dịch từ tiếng Hy Lạp makarioi (μακάριοι), có nghĩa là ban phước, hoặc hạnh phúc, may mắn. Các mối phúc chúng ta quen thuộc nhất được tìm thấy ở phần đầu của Bài Giảng Trên Núi nơi Tin Mừng Mát-thêu 5, 3-12 và Bài Giảng Nơi Đất Bằng trong Tin Mừng Luca 6, 20-26. Tuy nhiên, các mối phúc được tìm thấy trong Tin Mừng không phải là những mối phúc duy nhất trong Kinh thánh; chúng bắt nguồn từ kinh nghiệm của người Do Thái được Chúa chúc phúc trong suốt lịch sử cứu rỗi. Nhiều sách Cựu Ước đề cập đến những người dân được Chúa chúc phúc thường với câu “Phúc cho…”. Sách Đệ nhị luật khi mô tả viễn cảnh lúc dân Chúa tiến vào Đất Hứa, đã nói về phước lành, về hạnh phúc cho người vâng theo lề luật Chúa (Đnl 28,1-6). Phúc lành Chúa ban sẽ “tràn đầy” nơi cuộc sống nông thôn cũng như thành thị, sẽ ngập tràn lúc chào đời của trẻ em cũng như gia súc, và đến cả việc sản xuất hoa màu. Chúa chúc lành cho dân tộc này sẽ được an toàn, dư đầy và và thịnh vượng. Những phúc lành như thế là bằng chứng cho việc Chúa làm cho một dân tộc đã từng là nô lệ. Trong bối cảnh của Đệ nhị luật, ai muốn được hưởng phước lành đều phải tuân theo các luật lệ của giao ước. Chúng ta có thể tóm tắt ý này bằng câu, “Phúc cho những ai tuân theo các mệnh lệnh Chúa, Đấng đã giải phóng ngươi.”
Chúng ta cũng tìm thấy các mối phúc nơi sách các tiên tri. Thật thế tương tự như những tiểu quốc vùng Lưỡi Liềm Phì Nhiêu bị lật đổ trước những nước lớn hơn, nước Giuđa phải tranh đấu để sống còn và để luôn trung thành với Đức Chúa. Trong lúc nước Giuđa nghĩ đến việc lập liên minh với Ai Cập để chống lại Asiri, tiên tri Isaia nói ngay rằng những nỗ lực của Giu-đa như thế là nổi loạn. Ông đưa ra lời khuyên ngược đời này dưới dạng một mối phúc: “Vì Đức Chúa là Thiên Chúa công minh, hạnh phúc thay mọi kẻ đợi chờ Người”(Is 30, 18). Trong sách Giê-rê-mia đoạn 17, lời của nhà tiên tri cũng chất chứa nỗi thất vọng với dân Giu-đa vì họ đã vi phạm Giao ước và quay lưng lại với sự khôn ngoan được tìm thấy nơi Giao ước. Tiên tri Giêrêmia đã tạo niềm hy vọng khi nói “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào ĐỨC CHÚA, và có ĐỨC CHÚA làm chỗ nương thân.” Những lời chúc phúc như thế trong các sách tiên tri là cách làm rất thực tế trong bối cảnh chiến tranh xảy ra, chính quyền sụp đổ, và cuối cùng dân phải lưu vong.
Tiếp đến, những người được coi là “được ban phước” dưới hình thức “phúc thay” cũng có thể tìm thấy trong sách Thánh Vịnh:
– Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân (1, 1)
– Hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung.(32, 1)
– Phúc thay người ở trong thánh điện họ luôn luôn được hát mừng Ngài. (84, 4-5)
– Hạnh phúc thay dân nào biết ca ngợi tung hô; nhờ Thánh Nhan soi tỏ, họ tiến lên, lạy CHÚA. (89,15)
Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ CHÚA, ăn ở theo đường lối của Người.Đó chính là phúc lộc CHÚA dành cho kẻ kính sợ Người (128, 1 & 4).
Sách Châm ngôn 8,32-34 dạy rằng những ai nghe theo lời Chúa chỉ dạy sẽ được chúc phúc, và xác quyết nơi đoạn 22 câu 9 rằng ai biết chia sẻ thức ăn với người nghèo, người hào phóng ấy sẽ được ban phúc. Qua những ví dụ này, chúng ta bắt đầu thấy rằng phúc lành Chúa ban không phải là phần thưởng cho việc sống một đời sống tốt đẹp mà là một ân sủng Chúa ban tặng cho những ai sống như chứng nhân cho bản tính toàn hảo của Thiên Chúa và đặc tính của dân Người.
Mối phúc họa trong Tin Mừng Luca
Trong hai bộ “phúc thay” được tìm thấy trong các Tin Mừng Mátthêu và Luca, bộ tám mối phúc thật của Mát-thêu là quen thuộc nhất, bộ này cũng được gọi là Bài Giảng Trên Núi. “Phúc thay ai. . . vì họ sẽ . . .” là một công thức hữu ích vì nó ngắn gọn và dễ hiểu, cung cấp một khuôn mẫu dễ nhớ và cho thấy sự cân bằng bất ngờ giữa những gì được coi là một nhân đức và phần thưởng cho nhân đức đó. Hầu hết các mối phúc trong Mátthêu sử dụng ngôi thứ ba (họ – của họ), vì vậy các mối phúc này nghe hao hao giống như những châm ngôn hướng dẫn cách sống ở đời. Khi nghe phiên bản của Mátthêu, chúng ta có thể tách mình ra khỏi sự thật đầy thách thức để có thể tìm thấy nuớc Chúa với tâm hồn nghèo khó, sầu khổ, hiền lành, khao khát sự công chính, lòng thương xót, tâm hồn trong sạch, xây dựng hòa bình và bị bách hại. Những phúc lành này vừa có thể (không nhất thiết sẽ) ở “xa xa, không đụng chạm đến ta” như một bài học đạo đức và vừa có thể đem lại an ủi cho những ai tìm thấy mình trong những cảnh ngộ được nêu. Tuy nhiên, phiên bản “phúc thay” của Luca cho chúng ta một trải nghiệm khác.
Bài Giảng Nơi Đất Bằng của Luca ngắn hơn nhiều so với Bài Giảng Trên Núi gồm ba chương của Mátthêu; thực thế, phiên bản Luca bao gồm hai mươi chín câu trong chương 6. Giống như phiên bản Mátthêu, bài giảng trong phiên bản Luca cũng bắt đầu với một tập hợp các mối phúc, nhưng thay vì những câu nói ở ngôi thứ ba trong phiên bản Mátthêu, các mối phúc trong Luca sử dụng ngôi thứ hai (anh/ chị/em – của anh /chị/em). Những câu chữ “Phúc cho anh em . . .” hướng thẳng vào vào những người đang lắng nghe Chúa giảng, bất kể bao nhiêu thế hệ đã qua đi, chúng ta có thể trở thành những thính giả ban đầu của Chúa là các môn đệ và những người hiếu kỳ tình cờ đi ngang qua.
Ngoài ra, phiên bản của Phúc âm Luca có bốn mối phúc và kèm theo bốn “mối họa”. Từ tiếng Hy Lạp ouai (οὐαὶ) là một biểu hiện của than thở, đau buồn, và thậm chí là hành động tố cáo. Giống như các phúc lành có gốc rễ từ Cựu Ước, những mối họa trong Luca 6, 24-26 cũng có liên hệ gốc gác với Cựu Ước. Cho ví dụ, Tiên tri A-mốt nói thẳng mặt những người vi phạm Giao ước Chúa đã ký kết với Ít-ra-en: “Khốn cho những ai biến lẽ phải thành ngải đắng và vứt bỏ công lý xuống đất đen…nào áp bức người công chính, lại đòi quà hối lộ, nào ức hiếp kẻ nghèo hèn tại cửa công” (A-mốt 5, 7, 12b), những lời của Tiên tri ở trên cũng giống với thông điệp mà Chúa Giê-su muốn chuyển tải trong Lu-ca 6, 24-25. Theo truyền thống của các tiên tri, Chúa Giêsu than thở và lên án những người giàu có được ăn ngon mặc ấm, họ hài lòng về cuộc sống của họ, nhưng họ không nhận ra bản chất tạm thời mau qua của sự hài lòng đó.
Sự tương phản rõ nét ở chương 6 giữa phần về mối phúc và phần về mối họa, cùng với việc sử dụng ngôi thứ hai (“Phúc cho anh em” và “Khốn cho các ngươi”), xác định rõ ràng rằng Nước Trời đến mang lại những lựa chọn cho những người theo Chúa, và những lựa chọn này cũng mang đến hậu quả. Vì thế “Phúc cho anh em ” vừa là một lời quan sát và cũng vừa là một sự khích lệ, còn “Khốn cho các ngươi ” có ý nghĩa là một lời than thở nhưng cũng có nghĩa là một sự phán xét.
Luca 6 | Phúc cho anh em | Khốn cho các ngươi |
câu 20b / câu 24 | kẻ nghèo khó | kẻ giàu có |
câu 21 / câu 25a | kẻ bây giờ đang phải đói | kẻ bây giờ đang được no nê |
câu 21b / câu 25b | kẻ bây giờ đang phải khóc | kẻ bây giờ đang được vui cười |
câu 22 / câu 26 | khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa | khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế. |
Một lưu ý khác, việc sử dụng các mối phúc họa trong Tin Mừng Luca không chỉ thấy ở Bài Giảng Nơi Đất Bằng; nhưng còn ở những nơi khác của Tin Mừng. Trong số những người được ban phúc, được hạnh phúc hoặc may mắn có Mẹ Maria (1,45& 48), những người không vấp ngã vì Chúa (7, 23), các môn đệ là những người được đặc ân chứng kiếnChúa Giêsu hoạt động (10,23), những người lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa (11:28), người đầy tớ tận tụy thi hành những điều chủ nhắm đến (12,43), và những người cho đi mà không mong đợi được đáp lại (14,14). Mặt khác, có rất nhiều người than khóc khi Chúa Giê-su chúc dữ các thành phố Khoradin và Bếtxaiđa, những thành phố tượng trưng cho những người không ăn năn (10,13), và những người Pharisêu cùng các nhà thông luật mà sự giả hình của họ đã bị Chúa tỏ lộ cho mọi người thấy (11: 39-54). Chúa cũng nói “khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã (17, 1), và Người than khóc cho kẻ phản bội trong số những môn đệ thân cận nhất của mình (22, 22).
Làm chứng cho mối quan hệ
Các tác phẩm của Luca đã được công nhận từ lâu là nhấn mạnh đến nhân tính của Chúa Giê-su và các mối quan hệ của Nguời với những người khác (cũng như các mối quan hệ xuất hiện trong thế hệ đầu tiên của giáo hội; chúng ta hãy đọc lạli sách Công Vụ Tông đồ). Trong bối cảnh này, các mối phúc họa kết nối chúng ta qua các mối quan hệ hữu hình là trọng tâm những trải nghiệm của nhân loại. Chúng nhắc nhở chúng ta rằng Vương quyền của Thiên Chúa không phải là điều gì đó xa thật xa, và Vương quyền ấy không bị giới hạn bởi cõi thiên đàng. Vương quyền đó ngự trị ở đây và ngay bây giờ, đặc biệt ngay trong cách thức chúng ta liên hệ với nhau và với Chúa.
Những điều Chúa giảng dạy về các mối phúc họa trong Phúc âm Luca không có mục đích định tội; nhưng những lời chúc phúc và chúc dữ nhắm đến sự cần thiết phải sống đúng mối quan hệ trong cộng đoàn. Để tìm kiếm sự giàu có trong khi những người khác nghèo xơ xác, được ăn trong khi những người khác đói quanh năm, để cười khi ở giữa những người than khóc, và để tìm kiếm sự tán dương của bạn bè trong khi những người khác bị bắt bớ — tất cả những điều này chỉ ra sự ngắt mạch, không còn tương thông giữa cộng đoàn đức tin và cộng đồng thế giới rộng lớn hơn.
Những môn đệ Chúa Giê-su được kêu gọi làm chứng bằng lời nói và việc làm cũng như bằng các giá trị và nguyên tắc, cho các ưu tiên của Thiên Chúa. Qua Kinh thánh, và đặc biệt qua Tin Mừng Luca, chúng ta biết rằng Thiên Chúa có một tình yêu đặc biệt dành cho người nghèo, người đau khổ và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ưu tiên này được nhấn mạnh nơi các mối phúc.
Nước Chúa mà Chúa Giê-su công bố và là hiện thân nâng dậy những người chịu cúi đầu vì hoàn cảnh hoặc vì áp bức. Bài ca Ngợi Khen của Mẹ Maria (1,46-56), chỉ xuất hiện nơi Tin Mừng Luca, đã vẽ ra một bức tranh sống động về lòng Chúa thương xót, và mô tả sự đảo ngược bất ngờ của quyền lực và kinh tế. Trong sự đảo ngược này, chúng ta không thấy việc kết án nhưng thấy chúng ta có một cơ hội để tự xét mình và sắp xếp lại các ưu tiên.
Tác giả: Catherine Upchurch – Nguồn: The Bible Today, Volume 60, N. 3, May/June 2022
Chuyển ngữ: Luke Khổng Quang
2023
Thần học của Đức Bênêđictô XVI qua 12 lời trích dẫn đơn giản
Thần học của Đức Bênêđictô XVI qua 12 lời trích dẫn đơn giản
Our Sunday Visitor Staff
WHĐ – Trong lời nói đầu của Tuyển tập một số bài viết của Đức Bênêđictô XVI xuất bản năm 2018, Đức Thánh Cha Phanxicô viết rằng, các tác phẩm của vị tiền nhiệm của ngài “có thể giúp tất cả chúng ta không chỉ hiểu được hiện tại và tìm ra định hướng vững chắc cho tương lai của chúng ta, mà còn có thể là nguồn cảm hứng thực sự cho hành động mang tính công ích, bằng việc đặt gia đình, tình đoàn kết và sự bình đẳng vào trung tâm của nhận thức và hoạch định, thực sự hướng tới tương lai với tầm nhìn xa”.
Trong suốt quá trình phục vụ Giáo hội – với tư cách là một linh mục trẻ, sau đó là Giám mục, Tổng Giám mục, Hồng y, và cuối cùng là Giáo hoàng – Sự khôn ngoan của Đức Bênêđictô đã tỏa sáng rực rỡ, đưa con người Chúa Giêsu Kitô lên vị trí hàng đầu trong các giáo huấn của Giáo hội.
Dưới đây là 12 lời trích phác hoạ những nét thần học của Đức Cố Giáo hoàng.
- Mỗi chúng ta đều được yêu thương
Chúng ta không phải là sản phẩm ngẫu nhiên và vô nghĩa của quá trình tiến hóa. Mỗi chúng ta là kết quả của ý định của Thiên Chúa. Mỗi chúng ta đều được mong muốn; mỗi chúng ta đều được yêu thương, và mỗi chúng ta đều quan trọng. — Bài giảng thánh lễ khai mạc thừa tác vụ Phêrô, quảng trường thánh Phêrô, 25. 4. 2005
- Kitô hữu
Trở thành Kitô hữu không phải là kết quả của một lựa chọn đạo đức hay một ý tưởng cao cả, nhưng là sự gặp gỡ với một biến cố với một Con Người, Đấng đem lại cho đời sống chúng ta một chân trời mới và từ đó một định hướng dứt khoát. —Thông điệp Deus Caritas Est, ngày 25 tháng 12 năm 2005
- Ngườitrẻ
Này các bạn trẻ, một lần nữa cha hỏi các con, về hôm nay thì thế nào? Các con đang tìm kiếm điều gì? Thiên Chúa đang thì thầm với các con điều gì? Niềm hy vọng không bao giờ thất vọng là chính Chúa Giêsu Kitô. — Gặp gỡ giới trẻ và chủng sinh, Chủng viện Thánh Giuse, Yonkers, New York, Hoa Kỳ ngày 19. 4. 2008
- Thiên đàng
Sự thanh thản, hy vọng và bình an của chúng ta thực sự dựa trên điều này: trong Thiên Chúa, trong tư tưởng, và trong tình yêu của Ngài, không phải chỉ có một ‘cái bóng’ của chúng ta tồn tại, mà trái lại, chúng ta được gìn giữ và đưa vào cõi vĩnh hằng với toàn thể con người chúng ta ở trong Thiên Chúa, và trong tình yêu sáng tạo của Ngài. Chính Tình Yêu của Ngài đã chiến thắng sự chết, và ban cho chúng ta sự vĩnh cửu, và chính tình yêu này mà chúng ta gọi là ‘Thiên Đàng’: Thiên Chúa cao cả đến nỗi Ngài cũng dành chỗ cho chúng ta”. — Bài giảng Thánh lễ trọng kính Đức Trinh Nữ Maria Hồn Xác Lên Trời, Giáo xứ Thánh Thomas of Villanova, Castel Gandolfo, ngày 15. 8. 2010.
- Hy vọng
Chúng ta cần những hy vọng lớn, nhỏ để giúp chúng ta tiến bước từng ngày. Nhưng như thế là chưa đủ nếu không có niềm hy vọng lớn lao, vốn phải vượt trên mọi thứ khác. Niềm hy vọng lớn lao này chỉ có thể là Thiên Chúa, Đấng bao trùm toàn bộ thực tại và là Đấng có thể ban cho chúng ta những gì chúng ta không thể tự mình đạt được. — Thông điệp Spe Salvi, ngày 30. 11. 2007
- Maumắn đối vớinhững việc của Thiên Chúa
Có lẽ chẳng mấy khi chúng ta mau mắn thi hành những việc của Thiên Chúa. Ngài không nổi bật trong số những điều đòi hỏi sự mau mắn. Chúng ta nghĩ và nói rằng, những việc của Thiên Chúa có thể chờ đợi. Tuy nhiên, Thiên Chúa là điều quan trọng nhất, và thực sự, là điều hết sức quan trọng. — Bài giảng Thánh lễ Nửa Đêm, Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, ngày 24. 12. 2012.
- Đứctin
Tin không gì khác hơn là, trong bóng tối của thế giới, chạm vào bàn tay của Thiên Chúa và rồi, trong thinh lặng, lắng nghe Lời Chúa, và chiêm ngắm Tình Yêu. — Diễn từ kết thúc kỳ tĩnh tâm Mùa Chay hàng năm được tổ chức cho Giáo triều Rôma, Nhà nguyện Redemptoris Mater, ngày 23. 02. 2013.
- Sự thật
Như Thánh Augustinô đã dạy, sự thật – tự nó là quà tặng, giống như bác ái – cao cả hơn chúng ta là. Cũng vậy, sự thật về chính chúng ta, về lương tâm cá nhân của chúng ta, trước hết được ban cho chúng ta. Trong mọi tiến trình nhận thức, sự thật không phải là thứ chúng ta tạo ra, mà sự thật luôn được tìm kiếm, hoặc đúng hơn, được đón nhận. — Thông điệp Caritas in Veritate, ngày 29. 6. 2009
- Thánh giá
Vũ khí mới mà Chúa Giêsu đặt vào tay chúng ta là Thánh giá – một dấu chỉ của sự hòa giải, và tha thứ; một dấu chỉ của tình yêu mạnh hơn sự chết. Mỗi khi làm Dấu Thánh Giá, chúng ta cần nhớ là: đừng đối đầu với bất công bằng bất công khác, hoặc bạo lực bằng bạo lực khác; nhưng hãy nhớ rằng chúng ta chỉ có thể chiến thắng điều ác bằng điều thiện chứ không bao giờ bằng việc lấy ác báo ác. — Bài giảng Chúa nhật Lễ Lá, Quảng trường Thánh Phêrô, ngày 09. 4. 2006
- Chức linh mục
Chức linh mục không chỉ đơn thuần là ‘Chức vụ’ nhưng là Bí tích: Thiên Chúa dùng chúng ta là những người đàn ông hèn kém, để qua chúng ta, Thiên Chúa hiện diện với mọi người nam nữ và hành động vì họ. Sự táo bạo này của Thiên Chúa, Đấng phó mình cho nhân loại – Đấng, biết rõ sự yếu đuối của chúng ta, nhưng vẫn cho là chúng ta có khả năng hành động và hiện diện thay cho Ngài – sự táo bạo này của Thiên Chúa là sự cao cả đích thực ẩn chứa trong từ ‘chức linh mục’. — Bài giảng bế mạc Năm Linh mục, Lễ trọng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, Quảng trường Thánh Phêrô, ngày 11. 6. 2010
- Tìm kiếmhạnh phúc
Càng noi gương Chúa Giêsu và càng kết hợp với Người, chúng ta càng đi vào mầu nhiệm của sự thánh thiện thần linh của Người. Chúng ta khám phá ra rằng Người yêu thương chúng ta vô bờ bến, và do đó, thúc đẩy chúng ta yêu thương anh chị em mình. Yêu thương luôn đòi hỏi hành động từ bỏ chính mình, “đánh mất chính mình”, và chính điều này làm cho chúng ta hạnh phúc. — Bài giảng Lễ Các Thánh, Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, ngày 01. 11. 2006
- Thiên Chúa là tình yêu
Thiên Chúa không phải là một thế lực thống trị, một thế lực xa vời; trái lại, Thiên Chúa là tình yêu và Ngài yêu tôi – và như vậy, cuộc sống cần được Ngài hướng dẫn bằng sức mạnh gọi là tình yêu. — Lời chứng cuối cùng (Last Testament), 2016
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
2023
Báo cáo của Fides: số người Công giáo đang gia tăng ở tất cả các Châu lục, ngoại trừ Châu âu
Trước Ngày Thế giới Truyền giáo lần thứ 97 vào Chúa nhật 22 /10/2023, cơ quan Fides công bố tuyển tập thống kê truyền thống của mình nhằm đưa ra một cái nhìn tổng quan về Giáo hội trên thế giới. Châu Phi và Châu Mỹ ghi nhận mức tăng lớn nhất về số người Công giáo, tiếp theo là Châu Á và Châu Đại Dương. Fides tính toán, Lục địa già mất đi các tín hữu của mình, ít hơn 244.000 người. Tuy nhiên, mạng lưới giáo dục, xã hội và y tế luôn ổn định.
Các số liệu từ cơ quan thông tin của Các Hội Giáo hoàng Truyền giáo (OPM), được lấy từ niên bạn mới nhất của Giáo hội (31/12/2021), xem xét các phạm trù khác nhau của cơ cấu Giáo hội: các cơ cấu mục vụ, các hoạt động trong lĩnh vực y tế và giáo dục.
Chúng khởi đi từ dân số thế giới tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2021, ở mức 7,785 tỷ người. Fides thống kê có 1.375.852.000 tỷ người Công giáo, tăng tổng cộng hơn 16 triệu so với năm trước. Sự gia tăng liên quan đến tất cả các châu lục, ngoại trừ Châu Âu (-244.000). Như trước đây, mức tăng lớn hơn ở Châu Phi (+8.312.000 triệu) và Châu Mỹ (+6.629.000 triệu), tiếp theo là Châu Á (+1.488.000 triệu) và Châu Đại Dương (+55 000).
5.340 giám mục trên thế giới
Giáo hội hoàn vũ có ít hơn 23 giám mục so với năm trước với tổng số 5.340 trên toàn thế giới. Xu hướng tương tự cũng được thấy ở các linh mục giảm một chút ở hầu hết mọi nơi. Có 407.000 linh mục trên khắp thế giới. Châu Âu mất hơn 3.500, châu Mỹ gần một nghìn. Trái lại, ơn gọi linh mục đang gia tăng ở Châu Phi, tăng hơn 1.500 linh mục và ở Châu Á tăng thêm 700 linh mục.
Cụ thể, số Giám mục giáo phận tăng ở Châu Phi (+9) và Châu Âu (+1), mặc dù giảm ở Châu Mỹ (-6), Châu Á (-2) và Châu Đại Dương (-3). Các Giám mục dòng đang chứng kiến số lượng của họ giảm ở tất cả các châu lục: Châu Phi (-2), Châu Mỹ (-16), Châu Á (-2), Châu Âu (-3), ngoại trừ Châu Đại Dương, nơi tăng thêm một vị.
Châu Âu mất 3.632 linh mục
Tổng số linh mục trên thế giới giảm xuống, đạt 407.872 (-2.347). Một lần nữa, chúng ta thấy sự sụt giảm đáng kể ở Châu Âu (-3.632), cộng với Châu Mỹ (-963). Mức tăng được ghi nhận ở Châu Phi (+1.518), Châu Á (+719) và Châu Đại Dương (+11).
Số lượng linh mục giáo phận giảm tổng cộng 911 đơn vị, đạt con số 279.610, và lại giảm trong năm nay ở Châu Âu (-2.237) và ở Châu Mỹ (-230). Sự gia tăng được ghi nhận ở Châu Đại Dương (+21), Châu Á (+561) và Châu Phi (+974).
Số tu sĩ cũng giảm đáng kể ở Châu Mỹ, Châu Âu và Châu Đại Dương, nhưng lại gia tăng ở Châu Phi và Châu Á. Với mức độ năng động đặc biệt suy giảm trong số các nữ tu, -10.500 trên tổng số 600.000.
Điều tích cực là số lượng phó tế vĩnh viễn trên thế giới tiếp tục tăng trong năm nay + 541, tăng trên tất cả các châu lục.
Gần 50.000 tu sĩ trên thế giới
Số tu sĩ không phải linh mục giảm 795, đạt tổng số 49.774, mức giảm được ghi nhận ở Châu Mỹ (-311), Châu Âu (-599) và Châu Đại Dương (-115). Nó tăng ở Châu Phi (+205) và Châu Á (+25). Xu hướng giảm tổng thể về số lượng nữ tu đã được xác nhận, có ít hơn 10.588 nhưng tổng cộng có 608.958. Một lần nữa, mức tăng lại ở Châu Phi (+2.275) và Châu Á (+366), mức giảm ở Châu Âu (-7.804), Châu Mỹ (-5.185) và Châu Đại Dương (-240).
Một mạng lưới giáo dục, xã hội và y tế Công giáo dày đặc
Mạng lưới giáo dục và y tế Công giáo có vẻ ổn định và tăng nhẹ ở cấp độ tổng thể. 7 triệu học sinh được học tại các trường mẫu giáo Công giáo, 34 triệu học sinh tiểu học, 2 triệu học sinh trung học và gần 4 triệu sinh viên. Trung thành với mục vụ y tế và hoạt động bác ái của mình, Giáo hội có 5.400 bệnh viện và 14.000 trạm y tế, chủ yếu ở Châu Phi và Châu Mỹ; nhưng còn có 9.703 trại trẻ mồ côi, phần lớn ở châu Á (3.230); 10.567 trường mầm non; 10.604 trung tâm tư vấn hôn nhân, chủ yếu ở Châu Âu (5.390) và Châu Mỹ (2.609).
Tý Linh (theo Delphine Allaire, Vatican News)