2020
Cầu nguyện là cuộc chiến đức tin và chiến thắng dành cho người kiên trì
Bài giáo lý trong buổi tiếp kiến chung hàng tuần của ĐTC Phanxicô tại thư viện tông tòa Vatican, sáng thứ tư 10/06/2020
Tác giả bài viết: G. Võ Tá Hoàng
2020
Hai hiệu quả của việc tham dự Thánh Thể
Anh chị em thân mến
Hôm nay ở Ý và các quốc gia khác mừng kính trọng thể lễ Mình Máu Chúa Kitô. Trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay, thánh Phaolô đánh thức niềm tin của chúng ta nơi mầu nhiệm hiệp thông (x. 1Cor 10, 16-17). Ngài nhấn mạnh đến hai hiệu quả của chén được chia sẻ và bánh được bẻ ra: hiệu quả thuộc mầu nhiệm và hiệu quả thuộc về cộng đoàn.
Ngay từ đầu, Tông đồ Phaolô đã khẳng định: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Ki-tô ư?” (c. 16). Những lời này diễn tả hiệu quả thuộc mầu nhiệm hoặc chúng ta có thể nói đó là hiệu quả thiêng liêng của Bí tích Thánh Thể: nó liên quan đến sự kết hiệp với Chúa Kitô, qua hình bánh và rượu Ngài tự hiến để cứu rỗi tất cả mọi người. Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích Thánh Thể để trở nên lương thực cho chúng ta, để được đồng hóa và trở nên người phục hồi sức mạnh trong chúng ta, phục hồi năng lượng và mong muốn bắt đầu trở lại sau mỗi lần ngừng nghỉ hoặc sa ngã. Nhưng điều này đòi hỏi sự đồng ý của chúng ta và sự sẵn lòng để cho cho mình được biến đổi, biến đổi cách suy nghĩ và hành động; nếu không các cử hành Thánh Thể mà chúng ta tham dự bị giảm xuống thành các nghi thức trống rỗng và hình thức. Nhiều lần chúng ta đi tham dự thánh lễ vì phải đi, nó như một hành động xã hội, có vẻ tôn kính, nhưng mang tính xã hội. Nhưng mầu nhiệm nằm ở chỗ khác: đó là Chúa Giêsu hiện diện, Ngài đến để nuôi dưỡng chúng ta.
Hiệu quả thứ hai là tính cộng đoàn và điều đó được thánh Phaolô diễn tả bằng những lời sau: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (c 17). Đó là sự hiệp thông lẫn nhau giữa những người tham dự Thánh Thể, đến mức họ trở nên một thân thể, như tấm bánh được bẻ ra và phân phát. Chúng ta là cộng đoàn, được nuôi dưỡng bởi Mình và Máu Chúa Kitô. Sự hiệp thông với thân mình Chúa Kitô là dấu chỉ hữu hiệu của sự hiệp nhất, hiệp thông và chia sẻ. Chúng ta không thể tham dự Thánh Thể mà không dấn thân trong tình huynh đệ chân thành, hỗ trợ cho nhau. Tuy nhiên, Thiên Chúa biết rất rõ rằng chỉ bằng sức mạnh của con người thì không đủ cho việc này. Thật vậy Ngài biết rằng giữa các môn đệ luôn có sự cám dỗ về ganh đua, đố kỵ, thành kiến, chia rẽ… tất cả chúng ta đều biết điều này. Chính vì thế Chúa đã để lại cho chúng ta Bí tích của sự Hiện diện thực sự, cụ thể và vĩnh viễn, để khi được kết hiệp với Ngài chúng ta có thể nhận được món quà của tình yêu thương huynh đệ. Chúa Giêsu nói: “Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9). Điều này có thể thực hiện được nhờ bí tích Thánh Thể. Hãy ở lại trong tình bạn, trong tình yêu.
Hiệu quả hai mặt của Bí tích Thánh Thể: trước hết là sự kết hiệp với Chúa Kitô và sau là sự hiệp thông giữa tất cả những người được Ngài nuôi dưỡng, liên tục sinh ra và đổi mới cộng đoàn Kitô giáo. Giáo hội làm nên Bí tích Thánh Thể, nhưng cách sâu xa hơn đó là Bí tích Thánh Thể làm nên Giáo hội, và cho phép nó trở thành sứ mạng của mình, ngay cả trước khi hoàn thành nó. Đây là mầu nhiệm của sự hiệp thông Bí tích Thánh Thể: tiếp nhận Chúa Giêsu để Ngài biến đổi chúng ta từ bên trong và tiếp nhận Chúa Giêsu để làm cho chúng ta kết hiệp với nhau chứ không chia rẽ.
Xin Đức Trinh nữ rất thánh giúp chúng ta để chúng ta luôn đón nhận Chúa với sự kinh ngạc và biết ơn vì món quà lớn lao mà Chúa Giêsu đã thực hiện cho chúng ta là để lại cho chúng ta Bí tích Mình và Máu Người.
Tác giả bài viết: G. Võ Tá Hoàng chuyển ngữ
2020
ĐTC Phanxicô chào thăm tín hữu hành hương đền thánh Đức Mẹ Loreto lần thứ 42
ĐTC Phanxicô chào thăm tín hữu hành hương đền thánh Đức Mẹ Loreto lần thứ 42
Năm nay là năm thứ 8 liên tiếp Đức Thánh Cha Phanxicô đã điện thoại chào thăm các tín hữu tham gia cuộc hành hương đền thánh Đức Mẹ Loreto. Ngài khuyến khích các tín hữu hãy hy vọng và can đảm trước những khó khăn trong đại dịch và cả giai đoạn sau đại dịch.
Cuộc hành hương năm nay là lần thứ 42, được tổ chức ngày thứ Bảy 13/06, nhưng do đại dịch Covid-19, cuộc hành hương được thay bằng cuộc hành hương “ảo”, bằng một buổi cầu nguyện tại đền thánh và được truyền chiếu trên tivi và internet. Đức Thánh Cha nói đây là lần đầu tiên ngài thấy một cuộc hành hương “ảo”.
Xin Đức Mẹ ban niềm hy vọng và ơn can đảm
Ngỏ lời với Đức cha Fabio Dal Cin, tổng giám mục Loreto, với Đức cha Giancarlo Vecerrica, giám mục hưu trí của Fabriano-Matelica và tất cả các tín hữu hiện diện qua mạng internet và tivi, Đức Thánh Cha nói: “Đức Mẹ Loreto, Đức Mẹ của hy vọng, Đức Mẹ giúp chúng ta nhìn xa hơn, trong những thời điểm vô vùng khó khăn này chúng ta cần nhìn xa hơn với niềm hy vọng.”
Đức Thánh Cha bày tỏ sự gần gũi của ngài với các tín hữu và khuyến khích: “Anh chị em hãy can đảm! Thời gian sắp đến, sau đại dịch này, sẽ không dễ dàng, nhưng với lòng can đảm, đức tin, hy vọng chúng ta sẽ có thể tiếp tục tiến bước. Hãy can đảm! Hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ ban ơn can đảm này. Tôi cầu nguyện cùng với anh chị em.”
Các tín hữu hành hương của Đức Mẹ
Đức Thánh Cha cảm ơn khoảng 20 bạn trẻ hiện diện tại đền thánh, đại diện cho tín hữu hành hương khắp thế giới. Ngài nói: “Cảm ơn các con và tất cả những người cộng tác trong cuộc hành hương ảo này. Xin Chúa ban phước lành cho các con, xin Đức Mẹ gìn giữ các con. Cha chúc lành cho các con và xin đừng quên cầu nguyện cho cha.”
Kết thúc cuộc điện thoại, Đức Thánh Cha nói: “Anh chị em là các tín hữu hành hương của Đức Mẹ.”
Nhà Đức Mẹ ở Loreto
Theo lưu truyền, Nhà Đức Mẹ ở Nazareth được đưa từ Palestine về Loreto năm 1294. Địa điểm này cách Roma khoảng 300 cây số về hướng đông bắc, bên bờ biển Adriatique. Một ẩn sĩ là thầy Paolo della Selva được thấy nhà này trong thị kiến và báo cho giáo quyền. Từ đó dân chúng tuốn đến hành hương tại đây. Đền thánh huy hoàng được Đức Giáo Hoàng Phaolô II cho khởi công xây cất từ năm 1468. Qua dòng lịch sử, hơn 50 vị Giáo Hoàng đã đến hành hương tại Đền thánh Đức Mẹ Loreto, cùng với các tầng lớp tín hữu. Chính Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến hành hương tại Trung Tâm Thánh Mẫu lớn nhất này của Ý hồi tháng 03/2019. (CSR_4603_2020).
Hồng Thủy
2020
Loại bỏ thành kiến
17.6.2020 Thứ Tư
Mc 6, 1-6, 16-18
LOẠI BỎ THÀNH KIẾN
Theo tập tục thì mọi người Do Thái ở tuổi trưởng thành đều có thể lên tiếng khi tham gia phụng vụ tại hội đường. Chúa Giêsu đã sử dụng quyền này của Ngài và lên tiếng rao giảng Tin
Mừng. Nội dung rao giảng hẳn phải có một cái gì khác lạ với những điều từng được rao giảng tại đây.
Ngài trở về quê hương Nagiarét sau hơn một năm đi giảng dạy khắp nơi. Hôm ấy đúng vào ngày Sabat, mọi người đến hội đường để nghe đọc Kinh Thánh và nghe diễn giảng. Chúa Giêsu cũng vào đây để dự phụng vụ lời Chúa.
Và hôm nay, sau bài đọc, như luật cho phép, Ngài diễn giảng lời Chúa. Kết quả: dân chúng không nhận ra Ngài là ai và họ khinh khi Ngài, họ có thái độ hiểu lầm Ngài, hiểu lệch lạc về con người của Ngài. Bởi vì Ngài nói như một người có uy quyền, như bậc thầy nói với học trò, như một người muốn gây dựng cho mọi người lòng tín nhiệm nhau để tiến tới tin nhau. Điều Ngài dạy vượt mọi khuôn phép cổ truyền đến nỗi mọi người phải thắc mắc.
Nghĩa là trước những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, dân làng Nagiarét ngạc nhiên, vì họ thấy Ngài không đi học ở trường lớp nào mà sao lại có những lời lẽ khôn ngoan, cao siêu, mới lạ. Mặt khác, họ thấy Ngài chỉ là con bà Maria và bác Giuse thợ mộc, bản thân Ngài cũng chỉ là một anh phó mộc, mà sao có thể đảm nhận chương trình đại sự của Thiên Chúa được? Họ không thể ngờ được giữa bụi đất lại có kim cương, họ không thể hiểu được nơi Chúa có hai bản tính, họ không thể nhận ra yếu tố Thiên Chúa và con người, hữu hạn và vĩnh cửu, trời và đất, hạnh phúc và đau khổ giao hòa lại trong một thực tại duy nhất, là nơi con người Chúa Giêsu. Đó là điều làm cho họ vấp phạm, họ khinh thường Chúa và không thiết nghe lời chân lý của Ngài.
Khác đến độ mọi người đều có thể nhận ra và sửng sốt trước sự khôn ngoan của Ngài. Thực tế trước mắt đã khởi sự lay động họ, kéo họ ra khỏi giấc ngủ yên tĩnh giữa những cái biết rồi, đẩy họ vào con đường của những khám phá mới. Thế nhưng những câu hỏi chỉ loé lên trong thoáng chốc không đủ để chiếu sang cho họ tới được với Đấng đã đến giải phóng họ. Họ đã bỏ thực tế để trở về với lối lý luận thông thường của họ. Họ tưởng rằng họ đã biết quá rõ về Ngài khi nói ra được Ngài là con ai, đã làm gì và ai là những người thân thích với Ngài. Họ đã trở về với những cái họ đã nắm được để rồi quay lưng trước lời kêu gọi của thực tế trước mắt.
Điều họ mắt thấy tai nghe đã đánh động để họ phải đặt lại vấn đề, thế nhưng họ đã đóng chặt cửa lòng trước những cái mới mẻ đã từng làm cho họ sửng sốt và ngạc nhiên. Họ tự tách mình ra khỏi Nước Trời đang đến với họ. Tin Mừng còn ghi lại: thấy họ cứng lòng tin, Chúa Giêsu đã không làm một phép lạ nào, nghĩa là Ngài đã không tỏ quyền năng của Nước Trời cho họ và Ngài đi rao giảng ở những làng xung quanh.
Tin Mừng lại cho thấy người đương thời của Chúa Giêsu, cụ thể là chính đồng hương của Chúa đã sai lầm vì cao ngạo. Chính cái lý lịch xem ra rất tầm thường của Chúa mà họ đã xúc phạm nặng nề với Chúa: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao?”. Cũng chính cái lý lịch ấy, làm cho họ, thay vì được nhiều ơn lành từ Chúa Giêsu, thì ngược lại, họ đánh mất tất cả. “Người đã không làm phép lạ nào được”.
Có Thiên Chúa ở với mình, nhưng không biết đón nhận, vì thế, họ đã đánh mất cả Thiên Chúa: Không những không thể làm phép lạ, Chúa Giêsu còn bỏ ra đi. Người “qua các làng chung quanh mà giảng dạy”. Khi cố tình đẩy Chúa Giêsu ra khỏi cuộc đời mình, những người đồng hương của Chúa đã làm tổn thương mối liên hệ với Chúa Giêsu xét như một con người: tổn thương mối tương quan giữa người với người.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội, ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm do ta có thành kiến. Đó chính là khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta.
Thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự yên trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả không hay, sai lầm hoặc nguy hại. Thật vậy, ai đeo kính đen thì nhìn cái gì cũng tối hết; lưỡi đắng thì ăn gì cũng đắng; lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Yêu nên tốt, ghét nên xấu: “Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng”. Lòng chúng ta có khuynh hướng mạnh về điều gì, thì mắt chúng ta hay tìm, trí chúng ta hay tưởng và rồi chúng ta phán đoán người khác cũng giống như chúng ta và hơi chút là chúng ta đoán về đàng đó liền.
Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài người, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hay căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Đánh giá một người theo bên ngoài có thể đúng nhưng cũng có thể sai lầm.
Câu nói: “Trông mặt mà bắt hình dong” không phải là nguyên tắc chính xác, nên chính Chúa Giêsu có lần khuyên chúng ta: “Đừng có xem mặt mà bắt hình dong”. Khổng Tử cũng xác nhận: “Người tôi yêu chưa chắc đã tốt; người tôi ghét chưa chắc đã xấu”. Phong dao cũng có câu: “Người xấu duyên lặn vào trong. Bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài”. Lặn vào thì còn lại, bong ra thì mất đi rồi. Và hẳn chúng ta cũng không quên câu nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”,”Xanh vỏ mà đỏ lòng”. Cho nên, đánh giá một người mà chỉ căn cứ vào bề ngoài có thể là nông nổi, thiển cận và nguy hiểm.
Thành kiến đã làm cho dân làng Nagiarét phán đoán sai về Chúa Giêsu. Họ đã không nhận ra Ngài là Đấng cứu tinh. Đối với chúng ta cũng vậy, thành kiến có thể làm chúng ta mù quáng, không nhận định và phê phán một cách khách quan đúng đắn được. Thành kiến làm chúng ta không thể đối thoại, cởi mở với người khác và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người.
Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những gì là thành kiến về bản thân để khỏi tự ti mặc cảm; cũng như thành kiến về những người chung quanh, để có được một cái nhìn đúng đắn hơn, một nhận xét chân thành hơn, một phán đoán khách quan hơn, và một đời sống yêu thương cởi mở hơn.