Một số giáo huấn của Giáo Hội về truyền thông Xã Hội
MỘT SỐ GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI
VỀ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
Lời Giới Thiệu
Tập tài liệu tham khảo này thu góp một số Văn kiện chính thức của Giáo Hội, nhằm trình bày những Giáo huấn liên quan đến truyền thông xã hội và lập trường của Giáo Hội trước những ảnh hưởng của truyền thông trong thế giới hôm nay. Ngoài ra, còn có các Sứ điệp của các Đức Giáo Hoàng cho Ngày Thế Giới Truyền Thông hàng năm và tài liệu về một số cuộc họp về Truyền Thông Xã Hội của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu. Đó là những hướng dẫn cụ thể về cách sử dụng các phương tiện truyền thông hôm nay nhằm đem lại nhiều ích lợi cho công cuộc Loan Báo Tin Mừng cũng như đời sống của mỗi cá nhân.
Các phương tiện truyền thông xã hội hiện đại đang phát triển không ngừng và có khả năng đạt tới mọi người cách dễ dàng nhanh chóng, nên có thể trở thành những dụng cụ rất thích hợp để rao giảng Phúc Âm trong tinh thần phổ quát và hiệp thông của đức ái công giáo. Các phương tiện này cho thấy những khả năng hết sức to lớn cho chúng ta trong việc học tập, thông tin, giải trí và làm gia tăng các nhận thức luân lý. Chúng còn cho chúng ta nhiều cơ hội để đào sâu đức tin, xây dựng cộng đoàn, thực hiện và củng cố ơn gọi Kitô hữu của chúng ta. Chúng chính là những “quà tặng” của Thiên Chúa mà chúng ta nên tận dụng với sự phân định rõ ràng, khả năng phê phán và đánh giá đúng đắn.
Tuy nhiên bên cạnh đó có vô số những cạm bẫy, những cám dỗ mời mọc tinh vi hấp dẫn, mà nếu không hiểu rõ bản chất của chúng và không biết cách tránh xa chúng, cuộc sống con người có thể bị tha hóa, lầm lạc và đánh mất chính mình. Người Kitô hữu cần biết rõ mặt trái và các ảnh hưởng của truyền thông hôm nay, cũng như lập trường và những hướng dẫn của Giáo Hội. Nhờ đó, họ có thể sử dụng các phương tiện truyền thông cách hữu hiệu cho công cuộc truyền giáo, giúp bênh vực người nghèo và thăng tiến xã hội, đồng thời chống lại những thói tục, thể chế, hệ thống làm tha hóa con người.
“Thách đố lớn nhất của thời đại chúng ta đối với các tín hữu và tất cả những người thiện chí là làm sao duy trì được sự truyền thông trung thực và tự do để giúp củng cố tiến bộ toàn diện trên thế giới” (Tông thư Sự Phát Triển Nhanh Chóng, số 13). Việc tự nguyện đón nhận và gìn giữ những giáo huấn của Giáo Hội sẽ giúp người Kitô hữu sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội hiện đại hôm nay cách tốt đẹp, nhờ đó họ không bị thiệt hại; nhưng cũng như muối và ánh sáng, họ ướp trái đất và soi sáng thế gian (x. IM số 24).
Ước mong rằng những Giáo huấn của Giáo Hội về truyền thông xã hội giúp mỗi người chúng ta thêm hiểu biết và thêm lòng yêu mến Giáo Hội, nhờ đó trở nên những chứng tá sống động cho các giá trị của Tin Mừng Đức Kitô trên quê hương Việt Nam, chính trong thế giới kỹ thuật số đầy thách đố hôm nay.
Sr. Ngọc Lan, fmm.
SẮC LỆNH INTER MIRIFICA
VỀ CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
Lời Mở Đầu
1. Ý nghĩa từ ngữ.
Trong những phát minh kỳ diệu về kỹ thuật, mà, nhờ ơn Chúa, tài năng con người đã từng khai thác từ tạo vật, nhất là trong thời đại chúng ta, thì Giáo Hội là Mẹ, đặc biệt ân cần tiếp đón và theo dõi, từ những phát minh liên quan đặc biệt tới tinh thần con người, đến những phát minh mở nhiều con đường mới để truyền thông một cách hết sức dễ dàng đủ các loại tin tức, tư tưởng và mệnh lệnh. Tuy nhiên giữa những phát minh này, trổi vượt hơn cả là những phương tiện tự bản tính không những có liên hệ và ảnh hưởng đến từng người, mà còn đến chính đại chúng và toàn thể xã hội nhân loại như báo chí, điện ảnh, phát thanh, vô tuyến truyền hình và những thứ khác tương tự. Do đó những phương tiện này đáng được gọi là những phương tiện truyền thông xã hội.
2. Lý do thúc đẩy Công Đồng Vatican II quan tâm đến vấn đề.
Giáo Hội là Mẹ cũng biết rằng những phương tiện đó, nếu được sử dụng đúng đắn sẽ mang lại những lợi ích hữu hiệu cho nhân loại vì chúng đóng góp rất nhiều vào việc giải trí, huấn luyện tinh thần cũng như việc mở rộng và củng cố Nước Chúa. Giáo Hội cũng biết rằng con người có thể dùng chúng nghịch lại với ý định của Đấng Tạo Hóa, và làm cho chúng quay lại phản mình; hơn nữa Giáo Hội là Mẹ hiền hết sức đau lòng vì những thiệt hại quá thường xảy ra cho xã hội con người do việc cố ý dùng sai những phương tiện này.
Vì thế, để nhấn mạnh đến mối quan tâm của các Đức Giáo Hoàng và các Đức Giám Mục về vấn đề rất quan trọng này, Thánh Công Đồng nghĩ rằng có nhiệm vụ đề cập đến những vấn đề chính yếu liên quan tới những phương tiện truyền thông xã hội. Hơn nữa Thánh Công Đồng cũng tin tưởng rằng giáo thuyết và chỉ thị được trình bày sau đây không những sẽ giúp ích cho phần rỗi các Kitô hữu mà còn giúp cho việc tiến bộ của toàn thể cộng đoàn nhân loại.
Chương I
Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội
3. Nhiệm vụ của Giáo Hội.
Vì được Chúa Kitô thiết lập để mang lại phần rỗi cho hết mọi người, và do đó có nhiệm vụ phải rao giảng Phúc Âm, Giáo Hội Công Giáo nhận thấy mình có bổn phận dùng cả phương tiện truyền thông xã hội mà loan báo ơn cứu rỗi và dạy con người biết sử dụng chúng cho đúng đắn.
Như thế, Giáo Hội đương nhiên có quyền sử dụng và làm chủ bất cứ một loại truyền thông xã hội nào, tùy theo sự cần thiết hay lợi ích cho việc giáo dục Kitô hữu và cho việc mưu cầu phần rỗi các linh hồn; các vị Chủ Chăn đáng kính có nhiệm vụ huấn luyện và hướng dẫn các tín hữu thế nào để họ biết dùng cả những phương tiện này mà theo đuổi phần rỗi và sự toàn thiện của mình cũng như của toàn thể gia đình nhân loại.
Ngoài ra, giáo dân đặc biệt có bổn phận làm cho các phương tiện này thấm nhiễm tinh thần nhân đạo và Kitô giáo, để chúng đáp ứng đầy đủ niềm mong đợi lớn lao của xã hội nhân loại và đúng với ý định của Thiên Chúa.
4. Luật luân lý.
Để sử dụng đứng đắn những phương tiện này, mọi người khi sử dụng cần phải hiểu biết những nguyên tắc luân lý và phải áp dụng trung thành trong phạm vi này. Vậy họ phải cân nhắc nội dung những gì được truyền thông, tùy bản tính của mỗi phương tiện; đồng thời họ cũng phải chú ý đến mọi trường hợp hay hoàn cảnh, tức là mục đích, khán thính giả, địa điểm, thời gian liên quan đến việc truyền thông này: chính những trường hợp hay hoàn cảnh đó có thể biến cải hoặc đổi mới hoàn toàn tính cách luân lý của sự truyền thông. Trong số hoàn cảnh đó phải kể đến cách thức tác động riêng, nghĩa là sức mạnh thuyết phục của mỗi một phương tiện, sức mạnh đó có thể hùng hậu đến nỗi con người – nhất là nếu không được chuẩn bị – khó có thể nhận thức, chế ngự và từ khước nếu cần.
5. Quyền thông tin.
Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là tất cả những người liên hệ đến vấn đề này cần phải tự đào tạo cho mình một lương tâm ngay thẳng về việc sử dụng các phương tiện đó, nhất là những gì liên quan tới một số vấn đề ngày nay đang được bàn cãi sôi nổi.
Vấn đề thứ nhất là về thông tin, như người ta thường nói, nghĩa là việc thu thập và phổ biến tin tức. Dĩ nhiên ai cũng thấy nhờ tiến bộ của xã hội nhân loại ngày nay và nhờ các phần tử xã hội liên lạc chặt chẽ với nhau hơn, việc thông tin đã trở nên rất hữu ích và nhiều khi cần thiết; thật vậy việc thông tri đúng lúc các biến cố và các sự kiện giúp cho từng cá nhân biết đầy đủ và liên tục các việc đó, như thế chính họ có thể tham gia vào ích chung một cách hữu hiệu hơn, và nhờ đó mọi người càng dễ dàng đóng góp vào việc thăng tiến toàn thể xã hội hơn nữa. Vì vậy, xã hội nhân loại có quyền thông tin những gì thích hợp với con người – hoặc cá nhân hoặc liên kết với nhau trong đoàn thể – tùy theo hoàn cảnh từng người. Tuy nhiên việc thực thi đúng đắn quyền này đòi nội dung việc truyền thông phải luôn luôn xác thực – và vẫn giữ đức công bình và bác ái – và phải đầy đủ; ngoài ra cách thức truyền thông cũng phải lương thiện và thích hợp, nghĩa là cả trong việc săn tin lẫn loan tin, tuyệt đối phải tuân giữ luật lệ luân lý, các quyền lợi chính đáng và phẩm giá con người; thật vậy không phải mọi sự hiểu biết đều hữu ích, “còn bác ái thì xây dựng” (1Cor 8,1).
6. Luân lý và nghệ thuật.
Vấn đề thứ hai là xét đến điều mà người ta thường nói là những tương quan giữa quyền lợi của nghệ thuật, với tiêu chuẩn của luật luân lý. Vì những cuộc tranh luận thường xuyên về vấn đề này nhiều khi bắt nguồn từ những học thuyết sai lầm về luân lý và thẩm mỹ, nên Thánh Công Đồng tuyên bố mọi người phải tuyệt đối tuân giữ quyền ưu tiên của lãnh vực luân lý khách quan, bởi vì lãnh vực này là lãnh vực độc nhất trổi vượt và phối hợp một cách thích đáng với mọi lãnh vực khác – dù rất cao quý – của hoạt động con người, kể cả nghệ thuật nữa. Thật vậy, chỉ có lãnh vực luân lý mới liên hệ đến toàn diện bản tính con người, một tạo vật có lý trí mà Thiên Chúa đã tạo dựng và mời gọi vào đời sống siêu nhiên; vì nếu trung thành tuân giữ trọn vẹn lãnh vực luân lý, con người sẽ đạt tới hoàn thiện và hạnh phúc đầy đủ.
7. Khi phải trưng bày tội ác.
Sau cùng, việc tường thuật, mô tả hay trình bầy điều xấu về phương diện luân lý, ngay cả bằng những phương tiện truyền thông xã hội, chắc chắn có thể giúp nhận biết và khám phá con người một cách sâu rộng hơn, giúp bày tỏ và biểu dương vẻ huy hoàng của điều Chân, điều Thiện, nhờ các tác động kịch nghệ thích hợp; tuy nhiên để khỏi làm hại hơn là làm ích cho các tâm hồn, các hoạt động trên vẫn phải tuyệt đối tuân theo luật luân lý, nhất là nếu đề cập đến những vấn đề đòi phải được kính trọng tương xứng, hay đến những gì dễ khích động dục vọng xấu xa của con người đã mang vết tội tổ tông.
8. Dư luận quần chúng.
Vì dư luận quần chúng ngày nay có sức mạnh và uy quyền rất nhiều trên đời sống tư cũng như công của mọi tầng lớp dân chúng, nên mọi phần tử xã hội cần phải chu toàn bổn phận công bình và bác ái của mình, ngay cả trong lãnh vực này; bởi đó, họ cũng phải dùng những phương tiện truyền thông xã hội mà cố gắng tạo dư luận ngay chính và phổ biến những dư luận đó.
9. Bổn phận của khán thính giả.
Tất cả mọi người sử dụng các phương tiện truyền thông nghĩa là những độc giả, khán giả và thính giả nhận được sự truyền thông qua các phương tiện đó, tùy theo sự lựa chọn cá nhân và tự do, đều phải có những bổn phận đặc biệt. Thật vậy, việc lựa chọn đúng đắn đòi họ phải ưng thuận những gì là đức hạnh, khoa học và nghệ thuật; họ phải tránh những gì nên cớ hay làm dịp cho họ phải thiệt hại về phần thiêng liêng, hoặc có thể vì gương xấu mà làm cho người khác phải nguy hiểm, hoặc lại ngăn cản những việc truyền thông tốt mà cổ võ những truyền thông xấu: điều này thường xảy ra khi người ta trả tiền cho những người khai thác những phương tiện này chỉ vì lý do kinh tài.
Vì thế để chu toàn luật luân lý, chính những người sử dụng không được quên bổn phận phải tìm hiểu đúng lúc những phán quyết của cơ quan có thẩm quyền trong những vấn đề đó, và phải tuân giữ những phán quyết đó theo tiêu chuẩn lương tâm ngay thẳng; hơn nữa để chống lại những quyến rũ thiếu ngay chính một cách dễ dàng hơn, và để hoàn toàn bênh vực những ảnh hưởng tốt, họ phải chú tâm hướng dẫn và đào luyện lương tâm mình bằng những phương thế thích hợp.
10. Bổn phận của thanh thiếu niên và phụ huynh.
Những người sử dụng, nhất là thanh thiếu niên, phải lo tập cho quen điều độ và kỷ luật trong việc dùng những phương tiện này; ngoài ra họ cũng phải cố gắng thấu hiểu sâu xa hơn những điều họ thấy, nghe và đọc; họ phải thảo luận với những nhà giáo, những người chuyên môn, và phải học phán đoán cho đứng đắn. Còn bậc phụ huynh thì phải nhớ mình có bổn phận tận tâm coi sóc kẻo kịch ảnh, sách báo và những thứ cùng loại trái nghịch với Đức Tin, trái thuần phong mỹ tục, lọt vào ngưỡng cửa gia đình, cũng đừng để con cái gặp những thứ đó ở nơi khác.
11. Bổn phận của tác giả.
Bổn phận luân lý chính yếu đối với việc sử dụng đứng đắn những phương tiện truyền thông xã hội là của các nhà báo, nhà văn, các diễn viên, các nhà dàn cảnh, nhà sản xuất, những người xuất vốn, người phân phối, các quản đốc và những người buôn bán, những người phê bình và tất cả những người, bằng cách này hay cách khác, góp phần vào việc thực hiện hay phổ biến những phương tiện truyền thông này; trong hoàn cảnh hiện tại của nhân loại, mọi người đều thấy rõ rằng những người đó mang những trách nhiệm hết sức quan trọng, vì chính họ, trong khi thông tin và cổ động, có thể dẫn đưa nhân loại một cách ngay chính hay sai lạc.
Bởi thế họ có bổn phận tìm cách phối hợp những yếu tố kinh tế, chính trị hay nghệ thuật để chúng không bao giờ nghịch lại ích chung; muốn đạt tới điều đó một cách dễ dàng hơn, chính họ nên ghi tên vào những hiệp hội liên quan đến nghề nghiệp mình: những hiệp hội này bắt buộc các hội viên tôn trọng luật luân lý trong những công việc và bổn phận nghề nghiệp, và nếu cần, đi đến chỗ ký kết một quy ước luân lý phải tuân giữ chu đáo.
Họ cũng phải luôn nhớ rằng phần lớn các độc giả và khán giả là thanh thiếu niên: những lớp người này cần báo chí và kịch ảnh để giải trí lành mạnh và nâng cao tâm hồn. Hơn nữa, họ phải lo ủy thác cho những người xứng đáng và chuyên môn việc truyền thông những điều liên quan đến tôn giáo, và lo cho việc truyền thông đó được thực hiện với tất cả niềm tôn trọng xứng hợp.
12. Bổn phận của chính quyền.
Trong vấn đề này, chính quyền mang một trách nhiệm đặc biệt vì lý do công ích mà những phương tiện này nhằm tới. Thật vậy, vì nhiệm vụ, chính quyền có bổn phận phải bênh vực và bảo đảm sự tự do đích thực và chính đáng của việc thông tin, sự tự do mà xã hội ngày nay rất cần để tiến bộ, nhất là những gì thuộc về báo chí; chính quyền cũng có bổn phận nâng đỡ tôn giáo, văn hóa, những nghệ thuật chân chính, và phải bảo đảm cho những người sử dụng có thể tự do hưởng thụ quyền lợi chính đáng. Ngoài ra chính quyền cũng có bổn phận giúp đỡ những công cuộc không thể thực hiện, nếu không có sự trợ giúp của chính quyền, nhất là những công cuộc đặc biệt hữu ích cho giới trẻ.
Sau cùng, chính công quyền, cơ quan chính thức lo lắng cho sức khỏe của dân chúng, có bổn phận phải xem xét công minh và cẩn thận, bằng cách ban hành luật lệ và thi hành nghiêm chỉnh, đừng để cho những phương tiện này bị lạm dụng mà gây thiệt hại nặng nề cho thuần phong mỹ tục và sự tiến bộ xã hội. Xem xét cẩn thận như thế, không phải là đàn áp tự do cá nhân hay đoàn thể, nhất là đối với những người vì nghề nghiệp phải dùng các phương tiện này mà không có sự thận trọng phải lẽ.
Cũng phải có những phương thế đặc biệt để bảo vệ thanh thiếu niên khỏi những báo chí và kịch ảnh làm hại lứa tuổi chúng.
Chương II
Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội Và Việc Tông Đồ
13. Hoạt động của chủ chăn và tín hữu.
Mọi con cái Giáo Hội phải đồng tâm hiệp lực, chẳng những không ngần ngại mà phải hết sức hăng say, sử dụng ngay những phương tiện truyền thông xã hội cách đắc lực vào các công việc tông đồ khác nhau tùy theo những đòi hỏi cụ thể của hoàn cảnh và thời gian; họ cũng phải ngăn ngừa những tổ chức tai hại, nhất là ở những miền mà luân lý và tôn giáo muốn tiến bộ cần phải được họ can thiệp khẩn cấp hơn.
Vậy các Chủ Chăn đáng kính phải cấp tốc chu toàn phận vụ mình trong lãnh vực này, vì nó liên hệ chặt chẽ với những nhiệm vụ thông thường của các Ngài là giảng dạy; những giáo dân tham gia vào việc sử dụng những phương tiện này cũng phải cố gắng làm chứng về Chúa Kitô: trước hết bằng cách hoàn tất mọi công tác cho thành thạo với tinh thần tông đồ, rồi tùy khả năng kỹ thuật, kinh tế, văn hóa và nghệ thuật mà trực tiếp trợ giúp hoạt động phụng vụ của Giáo Hội theo phận vụ của mình.
14. Sáng kiến của người công giáo.
Trước hết phải cổ võ báo chí lành mạnh, tuy nhiên để độc giả thấm nhiễm đầy đủ tinh thần Kitô giáo, cũng phải thúc đẩy báo chí chính thức của công giáo, nghĩa là báo chí – hoặc do chính giáo quyền hoặc những người công giáo trực tiếp đề xướng và điều hành – được công khai xuất bản trong tinh thần xây dựng, củng cố và cổ võ những dư luận phù hợp với luật tự nhiên, với giáo lý và quy luật công giáo, và để phổ biến cùng giải thích đúng đắn những sự kiện liên quan đến đời sống Giáo Hội. Cũng phải dạy các tín hữu việc cần phải đọc và phổ biến các báo chí công giáo, để họ biết phán đoán mọi biến cố theo quan niệm Kitô giáo.
Phải dùng mọi phương thế hữu hiệu mà phát động và nâng đỡ việc sản xuất và chiếu những phim ảnh có ích cho việc giải trí lành mạnh, văn hóa và nghệ thuật của nhân loại, nhất là những phim ảnh dành riêng cho giới trẻ. Muốn thế phải nâng đỡ và đồng thời liên kết tài nguyên và những sáng kiến của các nhà sản xuất cũng như của những nhà phân phối có lương tâm, tán thưởng, nâng đỡ và liên kết những rạp do người công giáo và người đứng đắn khai thác.
Cũng thế phải giúp đỡ hữu hiệu những buổi phát thanh, phát hình lành mạnh, nhất là những chương trình thích hợp với gia đình. Phải khôn khéo cổ võ những chương trình công giáo, để nhờ đó dẫn đưa thính giả và khán giả tham dự đời sống Giáo Hội và làm cho họ thấm nhiễm những chân lý tôn giáo. Và nếu cần cũng phải lo thành lập các đài công giáo; tuy nhiên phải cẩn thận lo liệu cho chương trình các đài này được hoàn bị thích hợp và hữu hiệu.
Hơn nữa nên lo liệu cho nền kịch nghệ cao quý và cổ truyền – một nghệ thuật được phổ biến sâu rộng nhờ những phương tiện truyền thông xã hội – biết hướng về việc giáo dục khán giả và kiến tạo thuần phong mỹ tục.
15. Huấn luyện các tác giả, soạn giả, nhà sản xuất…
Để đáp ứng những nhu cầu vừa trình bày, phải đào tạo đúng lúc những linh mục, tu sĩ và giáo dân để họ có đầy đủ kinh nghiệm thích đáng trong việc sử dụng những phương tiện này vào mục đích tông đồ.
Trước hết phải huấn luyện giáo dân vững chắc về giáo thuyết và phong hóa, bằng cách tăng thêm số trường học, phân khoa và học viện, để các nhà báo, nhà soạn phim ảnh, soạn chương trình phát thanh phát hình, và những người liên hệ, có thể được huấn luyện đầy đủ, thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, nhất là các học thuyết xã hội của Giáo Hội. Cũng phải huấn luyện và giúp đỡ các diễn viên để họ dùng tài năng mình mà giúp ích cho xã hội nhân loại một cách thích hợp. Sau cùng phải tận tâm chuẩn bị các nhà phê bình văn chương, phim ảnh, phát thanh, phát hình v.v… để mỗi người hoàn toàn thấu triệt nghề nghiệp của mình; lại phải chỉ dạy và khuyến khích họ đưa ra những nhận định luôn nhấn mạnh đúng mức khía cạnh luân lý.
16. Huấn luyện người sử dụng, thụ hưởng…
Để sử dụng đúng đắn các phương tiện truyền thông xã hội này, những người sử dụng thuộc tuổi tác và văn hóa khác nhau cần phải được huấn luyện về lý thuyết và phần thực hành một cách thích hợp và riêng biệt. Vì thế, trong các trường công giáo thuộc mọi cấp, trong các Chủng Viện và trong cả những nhóm tông đồ giáo dân, phải cổ võ, tăng gia và theo nguyên tắc luân lý Kitô giáo hướng dẫn các tổ chức có khả năng theo đuổi mục đích này, nhất là những tổ chức dành riêng cho giới trẻ. Để mau đạt tới kết quả, lớp giáo lý cũng phải có phần trình bày và giải thích giáo thuyết và quy luật công giáo về vấn đề này.
17. Phương tiện và trợ giúp.
Thật đáng hổ thẹn cho con cái GH, đã lãnh đạm khiến cho việc rao giảng ơn cứu rỗi bị ràng buộc, cản trở vì lý do kỹ thuật hay tài chánh – chắc chắn rất to tát – là đặc tính của những phương tiện truyền thông xã hội. Vì thế Thánh Công Đồng này nhắc lại cho họ bổn phận phải nâng đỡ và trợ giúp các nhật báo công giáo, các tạp chí, các tổ chức phim ảnh, các đài và các chương trình phát thanh, phát hình nhằm mục đích chính là để phổ biến và bảo vệ sự thật, và cung cấp nền giáo dục Kitô giáo cho xã hội loài người. Đồng thời Thánh Công Đồng khẩn khoản mời gọi các đoàn thể và cá nhân có quyền hành rộng lớn trong lãnh vực kinh tế và kỹ thuật, hãy tự ý và rộng rãi dùng tài nguyên và kinh nghiệm của mình mà nâng đỡ những phương tiện này khi chúng phục vụ nền văn hóa đích thực và việc tông đồ.
18. Ngày Truyền Thông.
Để việc tông đồ muôn hình vạn trạng của Giáo Hội được đắc lực hơn bằng những phương tiện truyền thông xã hội, mọi giáo phận trên thế giới, tùy theo quyết định của các Giám Mục, hằng năm phải cử hành một ngày lễ để dạy dỗ các tín hữu về bổn phận của họ đối với vấn đề này, mời gọi họ cầu nguyện nhiều theo ý chỉ này, và xin họ đóng góp cho mục đích này: nghĩa là thành thật hy sinh cho việc phát động, nâng đỡ và cổ võ những tổ chức và sáng kiến của Giáo Hội trong vấn đề này theo nhu cầu của thế giới công giáo.
19. Ủy Ban truyền thông của Tòa Thánh.
Để thi hành bổn phận mục vụ tối cao về những phương tiện truyền thông xã hội, Đức Giáo Hoàng có một Ủy Ban riêng của Tòa Thánh.
20. Thẩm quyền của Giám Mục.
Các Giám Mục thì có bổn phận chăm sóc các công cuộc và các tổ chức thuộc loại này trong Giáo Phận mình. Các ngài phải cổ võ và nếu liên quan đến việc tông đồ chung, thì phải phối hợp chúng, kể cả những tổ chức thuộc quyền điều khiển của các tu sĩ miễn trừ.
21. Ủy Ban Giám Mục về Truyền Thông quốc gia.
Tuy nhiên trên bình diện Quốc Gia, muốn cho việc tông đồ đem lại kết quả, cần phải thống nhất kế hoạch và năng lực; vì thế Thánh Công Đồng này quyết định và truyền phải thiết lập khắp nơi các Cơ Quan quốc gia về báo chí, điện ảnh, truyền thanh và truyền hình, và phải dùng mọi phương thế giúp đỡ các cơ quan đó. Vậy các Cơ Quan này có bổn phận trước tiên là tìm cách đào tạo đúng đắn lương tâm tín hữu trong việc sử dụng những phương tiện đó, cùng cổ võ và phối hợp mọi công cuộc của người công giáo trong lãnh vực này.
Trong mỗi quốc gia, việc điều khiển các tổ chức trên phải được ủy thác cho một Ủy Ban Giám Mục đặc biệt, hoặc cho một Giám Mục đặc trách; tuy nhiên những giáo dân thông thạo giáo lý công giáo và các nghệ thuật đó phải được tham dự vào những Ủy Ban này.
22. Hiệp hội Truyền Thông Quốc Tế.
Hơn nữa, những phương tiện này có hiệu lực vượt khỏi ranh giới quốc gia, và biến mỗi người trở thành công dân của toàn thể xã hội nhân loại; vì thế trong lãnh vực này, phải phối hợp các tổ chức quốc gia với nhau và cả các hoạt động trên bình diện quốc tế. Tuy nhiên những Cơ Quan vừa kể ở số 21 phải tích cực cộng tác với Hiệp Hội Công Giáo Quốc Tế thuộc ngành mình. Những Hiệp Hội Công Giáo Quốc Tế này chỉ được chính thức chuẩn nhận do một mình Tòa Thánh và tùy thuộc Tòa Thánh.
Kết Luận
23. Chỉ dẫn mục vụ.
Để mọi nguyên tắc và tiêu chuẩn về những phương tiện truyền thông xã hội của Thánh Công Đồng này được thi hành, Thánh Công Đồng trực tiếp ủy nhiệm cho Cơ Quan của Tòa Thánh đã nói ở số 19, với sự giúp đỡ của những nhà chuyên môn thuộc các quốc gia khác nhau, lo xuất bản một cuốn chỉ dẫn mục vụ.
24. Lời khuyên kết thúc.
Hơn nữa Thánh Công Đồng này tin tưởng rằng mọi con cái Giáo Hội sẽ tự nguyện đón nhận và cẩn thận gìn giữ những giáo huấn và tiêu chuẩn trong Sắc Lệnh này; như thế khi sử dụng những phương tiện đó, họ không bị thiệt hại; cũng như muối và ánh sáng, họ ướp trái đất và soi sáng thế gian. Ngoài ra Thánh Công Đồng mời gọi mọi người thiện chí, nhất là những người điều khiển các phương tiện trên, hãy chăm lo qui hướng chúng về mục tiêu duy nhất là giúp ích cho xã hội loài người, vì vận mệnh của xã hội nhân loại ngày càng lệ thuộc vào việc sử dụng đúng đắn những phương tiện này. Nhờ vậy, cũng như xưa Danh Chúa đã được tôn vinh qua những công trình nghệ thuật cổ kính thì nay Người cũng được vinh danh qua những phát minh mới, đúng như lời Thánh Tông Đồ: “Chúa Giêsu Kitô hôm qua cũng chính là Chúa Giêsu Kitô hôm nay và cho đến muôn đời” (Dt 13,8).
Tất cả và từng điều đã được ban bố trong Sắc Lệnh này đều được các Nghị Phụ Thánh Công Đồng chấp thuận. Và, dùng quyền Tông Đồ Chúa Kitô trao ban, hiệp cùng các Nghị Phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, chế định và quyết nghị, và những gì đã được Thánh Công Đồng quyết nghị, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.
Roma, tại Đền Thánh Phêrô, ngày 4 tháng 12 năm 1963.
Tôi, Phaolô Giám Mục Giáo Hội Công Giáo.
Tiếp theo là chữ ký của các Nghị Phụ.
HUẤN THỊ MỤC VỤ ‘AETATIS NOVAE’
VỀ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
(Kỷ niệm 20 năm Huấn Thị Mục Vụ ‘COMMUNIO ET PROGRESSIO’)
DẪN NHẬP
CUỘC CÁCH MẠNG TRONG TRUYỀN THÔNG CỦA CON NGƯỜI
1. Vào buổi đầu của thời đại mới, việc quảng bá rộng rãi truyền thông của con người đang ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa ở khắp mọi nơi. Những thay đổi của cuộc cách mạng kỹ thuật chỉ là một phần của điều đang diễn ra. Ngày nay, không có nơi nào mà các thái độ tôn giáo, luân lý, các hệ thống chính trị và xã hội và việc giáo dục con người lại không chịu ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông.
Chẳng hạn ta không thể nào không biết rằng các biên cương địa lý và chính trị đã không còn giá trị mấy trước vai trò của truyền thông xã hội trong ‘những thay đổi tận căn’ vào năm 1989 và 1990, mà Đức Thánh Cha đã suy tư về ý nghĩa lịch sử của chúng qua tông huấn Centesimus Annus.
Điều hiển nhiên không kém là ‘nơi đầu tiên để rao giảng Tin mừng cho thời đại hiện nay là thế giới truyền thông vốn đang hiệp nhất nhân loại và biến nhân loại thành điều được coi là ‘ngôi làng toàn cầu’. Các phương tiện truyền thông xã hội đã trở nên quan trọng đến nỗi đối với nhiều người là phương thế chủ yếu để thông tin và giáo dục, để hướng dẫn và soi sáng cho hành động của họ xét như là những cá nhân, là gia đình và rộng lớn hơn, là phạm vi xã hội’.
Hơn một phần tư thế kỷ sau khi ban hành sắc lệnh Intre Mirifica của Công đồng Vatican II về truyền thông xã hội và hai thập kỷ sau khi ban hành huấn thị Mục vụ Communio et Progressio, Hội đồng Giáo Hoàng về truyền thông xã hội mong muốn suy tư về các hệ lụy mục vụ của tình trạng hiện nay.
Chúng tôi làm như thế theo tinh thần được lời kết luận của Huấn thị Communio et Progressio diễn tả: ‘Dân Thiên Chúa tiến bước trong lịch sử. Đang khi tiến tới theo thời gian, họ đầy tin tưởng và phấn khởi hướng nhìn đến tất cả những gì mà sự phát triển của việc truyền thông trong thời đại không gian có thể cống hiến’.
Chân nhận các nguyện tắc và trực giác của các văn kiện công đồng và hậu công đồng này là luôn luôn giá trị, chúng tôi muốn áp dụng chúng vào những thực tại mới nảy sinh. Chúng tôi không nhằm đưa ra những phán quyết chung cuộc về một hoàn cảnh phức tạp, uyển chuyển và chóng thay đổi, nhưng chỉ muốn đưa ra một khí cụ làm việc, một sự khích lệ nào đó cho những ai đang đối diện với những hệ lụy mục vụ của các thực tại mới mẻ ấy.
2. Trong những năm sau khi các văn kiện Inter Mirifica và Commusio et Progressio xuất hiện, con người trở nên quen thuộc với những kiểu nói như ‘xã hội thông tin’, ‘văn hóa truyền thông xã hội’ và ‘ thời đại truyền thông’. Những từ ngữ như thế đánh dấu một sự kiện nổi bật là: Ngày nay, phần lớn những gì người nam, người nữ nhận thức và suy tư về cuộc sống đều bị các phương tiện truyền thông điều kiện hóa; một phần đáng kể, kinh nghiệm của con người chính là kinh nghiệm của truyền thông xã hội.
Các thập kỷ mới đây cũng đã chứng kiến những phát hiện đáng kể trong kỹ thuật truyền thông. Chúng bao gồm cuộc cách mạng mau lẹ các kỹ thuật hiện có và việc xuất hiện các phương tiện viễn thông và kỹ thuật truyền thông mới: vệ tinh, truyền hình qua dây cáp, sợi quang học, băng ghi hình, đõĩa compact, kỹ thuật tạo hình bằng điện toán và kỹ thuật điện toán điện tử và nhiều thứ khác. Việc sử dụng các phương tiện truyền thông mới đó làm xuất hiện điều mà một số người gọi là ‘những ngôn ngữ mới’ và làm nẩy sinh những khả năng mới mẻ đối với sứ mệnh của Hội Thánh cũng như những vấn đề mục vụ mới.
3. Dựa vào bối cảnh này, chúng tôi khuyến khích các chủ chăn và các giáo dân tìm hiểu sâu xa những vấn đề liên quan tới truyền thông và các phương tiện truyền thông và diễn tả hiểu biết của mình thành những chính sách thực tiễn và các chương trình khả thi.
‘Khi các nghị phụ công đồng nhìn đến tương lai và cố gắng nhận định bối cảnh Hội Thánh được mời gọi thi hành sứ mệnh của mình, các Ngài đã có thể thấy rõ ràng rằng sự tiến bộ của kỹ thuật đã thực sự ‘thay đổi bộ mặt trái đất’, và còn vươn tới việc chinh phục không gian nữa. Các ngài nhìn nhận cách riêng rằng những phát triển về kỹ thuật, truyền thông như kéo theo những phản ứng dây chuyền với những hậu quả khôn lường’.
‘Thay vì đề nghị Hội Thánh nên đứng bàng quang, hoặc cố gắng tách mình ra khỏi chiều hướng của các biến cố này, các Nghị phụ công đồng nhận thấy Hội Thánh như đứng ở ngay chính giữa sự tiến bộ của nhân loại, chia sẻ kinh nghiệm của nhân loại, tìm kiếm thấu hiểu chúng và tìm cách giải thích chúng dưới ánh sáng của đức tin. Dân Thiên Chúa có nhiệm vụ phải vận dụng cách sáng tạo những khám phá và kỹ thuật mới mẻ ấy để mưu ích cho nhân loại và hoàn thành kế hoạch của Thiên Chúa đối với thế gian…… tận dụng tất cả tiềm năng của ‘thời đại điện toán’ nhằm phục vụ ơn gọi nhân linh và siêu việt của mọi nhân vị, và như thế tôn vinh Chúa Cha về tất cả những điều thiện hảo đang đến’.
Chúng tôi ngỏ lời tri ân những người chịu trách nhiệm về công việc truyền thông một cách linh động sáng tạo ở khắp nơi trong Hội Thánh. Mặc dầu có những khó khăn nẩy sinh từ các phương tiện hạn hẹp, từ các trở ngại đôi lúc bị đặt ra nhằm ngăn cản Hội Thánh tiếp cận với các phương tiện truyền thông và từ việc biến đổi liên tục văn hóa, các giá trị và các thái độ mà sự hiện diện tràn ngập của cáac phương tiện truyền thông đã đem lại, tuy nhiên, nhiều việc đã và đang được tiếp tục thực hiện. Các Giám mục, các linh mục, tu sĩ và giáo dân dấn thân trong hoạt động tông đồ cực kỳ quan trọng này thật đáng được mọi người tri ân.
Cũng đáng hoan nghênh tất cả những dọ dẫm tích cực trong việc cộng tác đại kết về truyền thông xã hội bao gồm những người Công giáo và các anh em thuộc các Giáo Hội và các cộng đoàn Hội Thánh khác, cũng như sự cộng tác liên tôn giáo với những người thuộc các tôn giáo khác trên thế giới. Không những là thích hợp mà còn cần thiết để các Kitô hữu hoạt động cộng tác trực tiếp hơn với các tôn giáo khác nhằm bảo đảm một sự hiện diện có tính tôn giáo thống nhất trong chính giữa lòng các phương tiện truyền thông đại chúng.
I. BỐI CẢNH CỦA TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
A. Bối Cảnh Văn hóa và Xã Hội
4. Không chỉ đơn thuần là cuộc cách mạng về kỹ thuật, cuộc cách mạng về truyền thông xã hội ngày nay bao hàm việc tái xác định một cách cơ bản những yếu tố nhờ đó con người hiểu biết thế giới, hiểu biết mình và kiểm chứng cùng diễn tả điều mình biết. Việc liên tục sử dụng các hình ảnh và quan niệm, cùng việc nhanh chóng thông truyền chúng từ lục địa này sang lục địa khác, có những hệ quả sâu đậm tích cực lẫn tiêu cực đối với sự thăng tiến tâm lý, luân lý và xã hội của nhân vị, đối với cơ thể và việc điều hành xã hội, giao lưu văn hóa, nhận thức và truyền thông các giá trị, các thế giới quan, các ý thức hệ, và các niềm tin tôn giáo. Cuộc cách mạng truyền thông ảnh hưởng đến cả nhận thức về Hội Thánh, và có ảnh hưởng quan trọng trên các cơ cấu và hình thái điều hành của riêng Hội Thánh.
Tất cả những điều này đều có những hiệu quả mục vụ mạnh mẽ. Phương tiện truyền thông có thể được sử dụng để công bố Tin mừng hoặc để làm cho Tin mừng lịm tắt trong tâm hồn con người. Một khi các phương tiện truyền thông ngày càng đan kết chặt chẽ với đời sống thường nhật của con người, chúng ảnh hưởng trên các cách thức của con người hiểu biết về ý nghĩa của chính cuộc đời.
Quả vậy, sức mạnh của phương tiện truyền thông còn vươn đến mức không chỉ xác định được điều người ta sẽ suy nghĩ mà còn cả những điều người ta sẽ suy nghĩ về. Đối với nhiều người, thực tại là cái mà các phương tiện truyền thông nhìn nhận là thực tại; cái mà chúng không nhìn nhận thì dường như không có giá trị bao nhiêu. Như thế, cứ sự (de facto) thì có thể áp đặt sự im lặng trên những con người và đoàn thể nào mà các phương tiện truyền thông biết tới; và cả đến tiếng nói của Tin mừng cũng có thể bị câm lặng theo cách thức ấy, cho dầu là không hoàn toàn.
Bởi đó, điều quan trọng là các Kitô hữu phải tìm ra những cách thức để bổ sung những thông tin thiếu sót cho những ai chưa có được cũng như mang lại tiếng nói cho những ai không được nói.
Sức mạnh của truyền thông xã hội, hoặc để củng cố hoặc để bác bỏ những điểm tựa cổ truyền về tôn giáo văn hóa và gia đình cũng nhấn mạnh đến tầm mức quan trọng mãi mãi của những lời sau đây của Công đồng: ‘Để cho các phương tiện truyền thông xã hội được sử dụng đúng đắn, tất cả những ai sử dụng chúng nhất thiết phải hiểu biết các nguyên tắc của trật tự luân lý và trung thành áp dụng chúng trong lãnh vực này’.
B. Bối Cảnh Chính trị và Kinh tế
5. Các cơ cấu kinh tế của các quốc gia ràng buộc chặt chẽ với những hệ thống truyền thông hiện nay. Đầu tư của quốc gia vào cơ sở hạ tầng của truyền thông cho hữu hiệu được phần đa coi là cần thiết cho sự phát triển kinh tế và chính trị; và phí tổn cho việc đầu tư ngày càng gia tăng đó đã trở thành một nhân tốâ chủ yếu khiến cho các nhà cầm quyền của nhiều quốc gia chấp nhận những chính sách chủ trương gia tăng sự cạnh tranh của thị trường. Vì lẽ này và những lẽ khác, hệ thống truyền thông và viễn thanh ở nhiều nơi đã chấp nhận chính sách phi chính phủ và tư nhân hóa.
Trong khi các hệ thống công cộng có thể bị lạm dụng rõ ràng vì những mục đích lèo lái có tính cách ý thức hệ và chính trị, thì việc thương mại hóa và tư nhân hóa phi chính phủ trong việc truyền thanh cũng có những hậu quả rất mạnh mẽ. Trong thực tế, và đó thường là vấn đề chính sách công cộng, trách nhiệm của công chúng trong việc sử dụng làn sóng âm thanh bị coi nhẹ. Chính lợi nhuận không phải là sự phục vụ đã trở thành thước đo tối quan trọng cho sự thành công. Động cơ lợi nhuận và lợi ích của người quảng cáo ảnh hưởng vô lối trên nội dung truyền thông: số đông được ưu tiên hơn là chất lượng, và cái tầm thường nhất thì thắng thế. Các nhà quảng cáo vượt quá vai trò hợp pháp của mình là xác định những nhu cầu chân chính và đáp ứng chúng, mà do các động cơ lợi nhuận thúc đẩy, họ cố tạo ra các nhu cầu ngụy tạo và những mô hình tiêu thụ.
Áp lực thương mại cũng tác động vượt quá các biên giới quốc giá, làm thiệt hại đến các dân tộc riêng biệt và những nền văn hóa của họ. Đối với sự cạnh tranh ngày càng gia tăng, và nhu cầu phát triển những thị trường mới, các công ty truyền thông ngày càng phải lệ thuộc vào chất liệu của ngoại bang. Như thế, sản phẩm của truyền thông bình dân của một nền văn hóa bị nhập vào nền văn hóa khác, và thường là gây hại cho những hình thái nghệ thuật đã có cùng với phương tiện truyền thông và những giá trị mà chúng cưu mang.
Dù là như thế, giải pháp cho các vấn đề nảy sinh từ việc thương mại hóa và tư nhân hóa vô tổ chức không nằm ở chỗ nhà nước nắm quyền kiểm soát phương tiện truyền thông, nhưng là ở chỗ điều hành sao cho phù hợp với lợi ích công cộng và có trách nhiệm nhiều hơn đối với quần chúng. Về việc này, nên lưu ý rằng, mặc dầu các cơ cấu luật pháp và chính trị trong đó các phương tiện truyền thông hoạt động nơi một số quốc gia đang thay đổi đáng kể sao cho tốt đẹp hơn, thì ở những nơi khác, sự can thiệp của chính quyền vẫn còn là một khí cụ để đàn áp và loại trừ.
II. CÔNG VIỆC CỦA CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
6. Huấn thị Communio et Progressio đặt nền trên cái nhìn về truyền thông như là phương thế để hiệp thông. Huấn thị tuyên bố: ‘Không chỉ diễn tả các quan niệm và biểu hiện cảm xúc, truyền thông còn là tự hiến trong tình yêu’. Về phương diện này, truyền thông phản ảnh sự hiệp thông riêng của Hội Thánh và có khả năng đóng góp cho sự hiệp thông ấy.
Quả vậy, việc truyền thông chân lý có thể chứa đựng một năng lực cứu chuộc, đến từ ngôi vị của Chúa Kitô. Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập thể và là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Trong Người và nhờ Người mà sự sống của chính Thiên Chúa được thông ban cho nhân loại nhờ tác động của chính Chúa Thánh Thần. Từ khi tạo thành vũ trụ, những gì vô hình, quyền năng vĩnh cửu và Thần tính của Thiên Chúa đã trở nên hữu hình, và được nhận biết xuyên qua những vật Ngài đã tạo dựng và rồi: ‘Ngôi Lời đã hóa thành xác phàm và đã cắm lều giữa chúng ta, và chúng ta đã nhận thấy vinh quang của Người: vinh quang của Con đến từ Chúa Cha, tràn đầy tình thương mến’.
Chính trong Ngôi lời nhập thể đây là việc Thiên Chúa thông ban chính mình đã được dứt khoát. Qua lời nói và việc làm của Đức Giêsu, Ngôi Lời giải phóng, cứu chuộc toàn thể nhân loại. Thiên chúa tình yêu tự mạc khải, kết hiệp với lời đáp trả bằng đức tin của nhân loại, tạo nên một cuộc đối thoại sâu xa.
Lịch sử nhân loại và mọi tương giao nhân loại tồn tại trong cơ cấu được thiết lập qua việc chính Thiên Chúa tự thông ban mình nơi Chúa Kitô. Chính lịch sử được sắp đặt để trở thành một thứ ngôn ngữ nói về Thiên Chúa, và một phần của ơn gọi con người đóng góp cho việc này được thành sự bằng cách sống sự thông ban liên tục và vô hạn của tình yêu cứu chuộc của Thiên Chúa qua những cách thức được sáng tạo mới mẻ khác. Chúng ta phải làm việc này qua ngôn ngữ của hy vọng và những việc làm của tình thương, qua chính lối sống của chúng ta. Như thế, truyền thông phải đặt ở chính giữa lòng của cộng đoàn Hội Thánh.
Chúa Kitô vừa là nội dung vừa là nguồn mạch năng động cho việc truyền thông của Hội Thánh khi công bố Tin mừng. Vì chính Hội Thánh là ‘nhiệm thể Chúa Kitô – sự sung mãn vô hình của Chúa Kitô vinh hiển – là Đấng làm cho tạo thành nên sung mãn’. Kết quả là trong Hội Thánh, và với sự trợ giúp của Lời Chúa và các Bí tích, chúng ta hướng tới niềm hy vọng được hiệp nhất chung cuộc, nơi đó, Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự.
A. Phương Tiện Truyền Thông Phục Vụ Con Người Và Văn Hóa
7. Vì tất cả những lợi ích mà chúng ta thực hiện và có khả năng thực hiện, các phương tiện truyền thông xã hội vốn là những khí cụ hiệp nhất và hiểu biết thật hữu hiệu, đôi khi cũng có thể là khí cụ chuyên chở một cái nhìn lệch lạc về cuộc sống, về gia đình, về tôn giáo và luân lý, một cái nhìn không tôn trọng phẩm giá và định mệnh cách đích thực của nhân vị. Truyền thông xã hội buộc phải tôn trọng và góp phần cho sự thăng tiến toàn vẹn nhân vị bao gồm chiều kích văn hóa, siêu việt và tôn giáo của con người và xã hội.
Ta cũng có thể tìm thấy nguồn gốc của một số vấn đề cá nhân và xã hội khi thay thế các giao tế của con người bằng việc ngày càng sử Dụng những phương tiện truyền thông và gắn bó chặt chẽ với các nhân vật tưởng tượng của truyền thông xã hội. Nói cho cùng, các phương tiện truyền thông không thể nào thay thế sự tiếp xúc trực tiếp giữa con người và sự tương tác giữa các thành viên trong gia đình và giữa các bạn hữu.. Song, giải pháp cho khó khăn này cũng hệ tại phần lớn của truyền thông xã hội: nhờ sử dụng chúng qua những cách thức như trao đổi nhóm, thảo luận về phim ảnh và truyền thanh, sẽ thúc đẩy các thông giao liên vị hơn là thay thế chúng.
B. Phương Tiện Truyền Thông Phục Vụ Việc đối Thoại Với Thế Giới
8. Công đồng Vatican II nhấn mạnh ý thức của dân Thiên Chúa là họ ‘thực sự liên kết mật thiết với nhân loại qua lịch sử của nhân loại’. Những ai công bố Lời Chúa buộc phải chú ý và tìm cách thấu hiểu ‘ngôn ngữ’ của các dân tộc và các nền văn hóa khác nhau, ngõ hầu không chỉ học hỏi từ chúng song còn giúp chúng nhận ra và chấp nhận Lời Chúa. Vì thế, Hội Thánh phải duy trì sự hiện diện tích cực, chăm chú lắng nghe đối với thế giới- một loại hiện diện vừa nuôi dưỡng cộng đoàn vừa nâng đỡ con người tìm kiếm những giải pháp có thể chấp nhận được cho các vấn đề cá nhân và xã hội.
Hơn nữa, vì Hội Thánh phải luôn luôn truyền thông sứ điệp của mình theo cách thức phù hợp với từng thời đại và các nền văn hóa của những quốc gia và dân tộc khác nhau, cho nên ngày nay, Hội Thánh phải thông truyền trong và cho nền văn hóa mới nảy sinh. Đây là điều kiện cơ bản nhằm đáp ứng lại điểm then chốt mà công đồng Vatican II đã chỉ ra là: ‘nhiều mối ràng buộc xã hội, kỹ thuật và văn hóa’ liên kết con người ngày càng chặt chẽ hơn đang xuất hiện khiến cho nhiệm vụ của Hội Thánh là đưa dẫn mọi người ‘kết hiệp trọn vẹn với Chúa Kitô’ có tầm mức khẩn cấp đặc biệt’. Xét thấy tầm quan trọng lớn lao mà các phương tiện truyền thông xã hội có thể đóng góp cho nỗ lực của Hội Thánh thúc đẩy sự hiệp nhất này, Hội Thánh nhận thấy các phương tiện ấy như là các phương thế mà Chúa quan phòng đã đề ra nhằm cổ võ sự thông giao và hiệp thông giữa các hữu thể nhân linh trong cuộc hành trình trần thế của họ’.
Như vậy, khi tìm cách đối thoại với thế giới hiện đại, Hội Thánh khẩn thiết ao ước có sự đối thoại chân thành và kính trọng với những ai có trách nhiệm về các phương tiện truyền thông xã hội. Về phần Hội Thánh, cuộc đối thoại này bao hàm các nỗ lực hiểu thấu những phương tiện truyền thông- mục đích của chúng, các thủ tục, hình thái và loại hình, các cơ cấu bên trong và những mô hình- và nâng đỡ cũng như khuyến khích những người dấn thân trong công tác truyền thông. Trên căn bản hiểu biết thông cảm và nâng đỡ này, Hội Thánh có thể đề ra những đề nghị giá trị nhằm cất đi những trở ngại cho sự tiến bộ của nhân loại và việc công bố Tin mừng.
Bởi thế, cuộc đối thoại như thế đòi hỏi Hội Thánh phải tích cực quan tâm đến các phương tiện truyền thông trần thế, và phải đặc biệt là việc hình thành chính sách truyền thông. Thật vậy, các Kitô hữu có trách nhiệm đặc biệt để tiếng nói của họ được lắng nghe trong mọi phương tiện truyền thông, và nhiệm vụ của họ không chỉ giới hạn ở chỗ thông tin về Hội Thánh. Cuộc đối thoại cũng bao gồm việc trợ giúp các nghệ sĩ ngành truyền thông, nó đòi hỏi thăng tiến một nền nhân học và thần học về truyền thông – ít ra là để chính thần học có thể mang tính cách thông truyền hơn nữa, có kết quả hơn nữa khi công bố các giá trị Tin mừng và áp dụng chúng vào những thực tại đương thời của cảnh sống con người ; nó đòi hỏi các vị lãnh đạo Hội Thánh và những người làm công tác mục vụ sẵn sàng và khôn ngoan đáp ứng truyền thông xã hội khi được yêu cầu, trong khi tìm cách thiết lập những quan hệ được tín nhiệm và kính trọng nhau đối với những ai chưa có đức tin của chúng ta, dựa trên các giá trị căn bản chung.
C. Phương Tiện Truyền Thông Phục Vụ Cộng Đoàn Nhân Loại Và Sự Tiến Bộ
9. Trong Hội Thánh và nhờ Hội Thánh, truyền thông nhất thiết là truyền thông Tin mừng về đức Giêsu Kitô. Đó là công bố Tin mừng như là một lời ngôn sứ, giải phóng những con người nam nữ trong thời đại chúng tá, trước việc thế tục hóa tận căn, đó là chứng tá về chân lý của Thiên Chúa và về định mệnh siêu việt của nhân vị; đó là chứng tá về tình liên đới với hết mọi người tin chống lại xung khắc và chia rẽ, chứng tá về công bình và hiệp thông giữa các dân tộc, quốc gia và các nền văn hóa.
Về phần Hội Thánh, hiểu sự truyền thông như thế soi sáng cách riêng truyền thông xã hội và theo chương trình quan phòng của Thiên Chúa, soi sáng vai trò các phương tiện truyền thông nắm giữ trong việc cổ võ sự thăng tiến toàn diện con người xã hội.
D. Phương Tiện Truyền Thông Phục Vụ Sự Hiệp Thông Của Hội Thánh
10. Song song với những điều trên, cần phải liên tục nhắc đến tầm quan trọng của quyền căn bản được đối thoại và thông tin trong Hội Thánh như Huấn thị Communio et Progressio diễn tả, và phải tiếp tục tìm kiếm những phương thế hữu hiệu, bao gồm việc sử dụng có trách nhiệm các phương tiện truyền thông xã hội, nhằm thực hiện và bảo vệ quyền này. Về vấn đề này, chúng ta cũng nên nhớ đến các xác quyết của Bộ Gíáo luật mới, là, ngoài việc tỏ lòng tuân phục với các chủ chăn của Hội Thánh, các tín hữu ‘cần phải thong dong tỏ bày các nhu cầu của họ, đặc biệt là những nhu cầu thiêng liêng. Cùng các mong muốn của họ cho các vị chủ chăn, và các tín hữu theo sự hiểu biết, khả năng và vai trò của mình, có ‘quyền và đôi khi còn là bổn phận’ tỏ bày cho các vị chủ chăn quan điểm của họ về những vấn đề liên quan đến lợi ích của Hội Thánh.
Một phần, đây là việc duy trì và cổ võ tính khả tín và hữu hiệu của Hội Thánh. Song căn bản hơn, đó là một trong những phương thế thực hiện cách cụ thể tính chất của Hội Thánh là ‘hiệp thông’ vốn cắm rễ và phản ánh sự hiệp thông mật thiết của Chúa Ba Ngôi. Giữa các phần tử của cộng đoàn những con người làm nên Hội Thánh, có một sự bình đẳng tận căn về phẩm giá và sứ mệnh đến từ phép rửa tội và làm nền tảng cho cơ cấu phẩm trật và sự khác biệt các chức vụ và phận sự; và sự bình đẳng này nhất thiết phải biểu lộ ra qua việc chân thành cùng kính trọng chia sẻ thông tin và các ý kiến.
Tuy nhiên, cũng nên nhớ rằng, trong những trường hợp khác biệt, không phải là do tìm cách gây sức ép trên dư luận mà người ta góp phần làm sáng tỏ các vấn đề giáo thuyết và chân lý. Thực vậy, không phải mọi quan niệm lưu truyền giữa dân Chúa đều được đơn sơ và tinh tuyền xác định bằng cảm thức đức tin.
Tại sao Hội Thánh lại nhấn mạnh rằng con người có quyền tiếp nhận thông tin chính xác? Tại sao Hội Thánh nhấn mạnh mình có quyền công bố chân lý đích thực của Tin mừng? Tại sao Hội Thánh nhấn mạnh trách nhiệm của các vị mục tử thông truyền chân lý và đáo tạo các tín hữu cũng làm như thế? Đó là vì toàn bộ sự hiểu biết ý nghĩa của truyền thông trong Hội Thánh được xây dựng trên căn bản nhận thức rằng Ngôi Lời của Thiên Chúa đã thông truyền chính mình.
E. Phương Tiện Truyền Thông Phục Vụ Việc Tân Phúc âm Hóa
11. Song song với các phương thế truyền thông như chúng tá đời sống, huấn giáo, giao tiếp cá nhân, lòng đạo đức bình dân, phục vụ và những buổi lễ cử hành tương tự, việc sử dụng các phương tiện truyền thông hiện nay là thiết yếu trong việc rao giảng Tin mừng và huấn giáo. Quả vậy, Hội Thánh cảm thấy mình có lỗi trước mặt Chúa nếu như Hội Thánh không sử dụng những phương thế hữu hiệu mà tài năng con người ngày càng hoàn thiện. Các phương tiện truyền thông xã hội có thể và phải là những khí cụ trong chương trình tái rao giảng Tin mừng và Tân Phúc âm hóa Hội Thánh trong thế giới hiện nay. Trước sự hiện hữu đã kiểm chứng của nguyên tắc cổ xưa là ‘xem, xét và hành động’ khía cạnh thính thị của truyền thông trong việc rao giảng Tin mừng cần phải được lưu tâm đặc biệt.
Nhưng cũng rất quan trọng trong việc Hội Thánh tiếp cận với các phương tiện truyền thông và nền văn hóa chúng đã cố gắng hình thành, là phải luôn luôn nhớ rằng: ‘Sử dụng các phương tiện truyền thông để quảng bá sứ điệp Kitô giáo và huấn giáo đích thực của Hội Thánh thì không đủ. Còn cần phải hội nhập sứ điệp ấy vào nền ‘văn hóa mới mẻ’ mà truyền thông hiện nay tạo ra,…bằng những ngôn ngữ mới, những kỹ thuật mới và tâm lý học mới’. Việc rao giảng Tin mừng ngày nay phải tuôn trào từ sự hiện diện sống động cảm thông của Hội Thánh giữa thế giới truyền thông.
III. CÁC THÁCH ĐỐ HIỆN NAY
A. Yêu Cầu Phải Đánh Giá Nghiêm Chỉnh
12. Nhưng cả khi Hội Thánh tiếp cận một cách tích cực và cảm thông với các phương tiện truyền thông, nhằm đi vào nền văn hóa được truyền thông hiện đại tạo ra để rao giảng Tin mừng cho hữu hiệu, thì cùng lúc đó, Hội Thánh cũng cần phải đưa ra sự đánh giá nghiêm chỉnh về truyền thông xã hội và ảnh hưởng của chúng trên nền văn hóa.
Như chúng tôi đã nói đi nói lại, kỹ thuật truyền thông là một biểu hiện tuyệt diệu của tài năng nhân loại. Nhưng cũng như chúng tôi đã vạch ra, việc áp dụng kỹ thuật truyền thông và việc sử dụng chúng nhằm mục đích tốt đẹp đòi hỏi các giá trị lành mạnh và những lựa chọn khôn ngoan với các cá nhân, trong phạm vi riêng tư nơi nhà cầm quyền và nơi xã hội xét như một tổng thể. Hội Thánh không nhằm độc đoán quyết định và lựa chọn, nhưng có ý trợ giúp bằng cách vạch ra những tiêu chuẩn đạo đức và luân lý có liên hệ với tiến trình ấy- những tiêu chuẩn phải được tìm thấy trong các giá trị vừa nhân bản vừa Kitô giáo.
B. Sự Liên Đới Và Phát Triển Toàn Diện
13. Như thực tế cho thấy, đôi khi truyền thông xã hội làm trầm trọng thêm các vấn đề về cá nhân và xã hội trên con đường liên đới nhân loại và phát triển toàn diện nhân vị. Những trở ngại này bao gồm chủ nghĩa duy thế tục, chủ nghĩa tiêu thụ, duy vật, phi nhân và thiếu quan tâm đến số phận của những người nghèo khổ và bị bỏ rơi.
Dựa trên bối cảnh này mà khi mình nhận các phương tiện truyền thông xã hội là ‘phương thế đặc tuyển’ của thời đại để tạo nên và truyền thông văn hóa, Hội Thánh nhận thức bổn phận riêng của mình là cung ứng việc đào luyện những chuyên viên về truyền thông và đào luyện công chúng, ngõ hầu họ có thể tiếp cận với truyền thông ‘với một ý thức nghiêm túc được lòng đam mê sự thật sinh động hóa’; Hội Thánh cũng nhận thức bổn phận của mình là dấn thân vào công tác ‘bảo vệ sự tự do, tôn trọng phẩm giá của cá nhân và đề cao nền văn hóa chân chính của các dân tộc bằng cách cương quyết và can đảm khước từ mọi hình thái độc tài và mị dân.
C. Chính Sách Và Cơ Chế
14. Về phương tiện này, một số vấn để đặc biệt nảy sinh từ các chính sách và các cơ chế: chẳng hạn như loại trừ một cách bất công một số đoàn thể và tầng lớp, không cho sử dụng các phương tiện truyền thông, việc ngăn cản một cách hệ thống quyền căn bản được thông tin thực hiện ở một vài nơi, một số thành phần đặc tuyển về kinh tế, xã hội về chính trị, nắm toàn quyền rộng rãi về truyền thông. Những điều này thật trái nghịch với các mục tiêu chính yếu, và quả thực trái với chính bản chất của truyền thông xã hội, vốn có vai trò riêng biệt và thiết yếu của nó là nhằm góp phần vào những thực hiện quyền được thông tin của con người, cổ võ công bằng khi theo đuổi công ích và trợ giúp các cá nhân, đoàn thể, và các dân tộc trong việc tìm kiếm chân lý. Các phương tiện truyền thông thực hiện những nhiệm vụ khó khăn này khi chúng cổ võ việc trao đổi quan niệm và thông tin giữa các tầng lớp và mọi phạm vi xã hội, và cống hiến cho mọi tiếng nói hữu trách có cơ hội được lắng nghe.
D. Bảo Vệ Quyền Được Thông Tin và Thông Tin
15. Không thể chấp nhận được việc thực hiện tự do truyền thông, phải lệ thuộc vào của cải, giáo dục, và quyền lực chính trị. Quyền truyền thông là quyền lợi của hết mọi người.
Điều đó đòi hỏi các nỗ lực đặc biệt của quốc gia và quốc tế, không chỉ làm cho những người nghèo khổ và yếu thế có thể tiếp cận được thông tin họ cần có để thăng tiến bản thân và xã hội, nhưng còn bảo đảm rằng họ có thể đóng vai trò hữu hiệu có trách nhiệm trong việc quyết định nội dung truyền thông và quy định những cơ chế về chính sách trong các tổ chức truyền thông quốc gia.
Ở đâu mà các cơ chế luật pháp và chính trị cổ võ sự thống trị của một số ưu tuyển trên truyền thông xã hội, thì về phần mình, Hội Thánh phải thúc đẩy sự kính trọng quyền được truyền thông, bao gồm quyền Hội Thánh được tiếp cận với truyền thông, cùng lúc đó tìm những mô hình truyền thông khác cho các thành viên của mình và đại chúng. Quyền được truyền thông cũng là một phần của quyền tự do tôn giáo vốn không chỉ hạn hẹp ở việc tự do thờ phượng.
IV. NHỮNG ƯU TIÊN VÀ ĐÁP ỨNG MỤC VỤ
A. Bảo vệ văn hóa con người
16. Xét theo tình cảnh của nhiều nơi, cảm thức về các quyền lợi và lợi ích của các cá nhân thường kêu gọi Hội Thánh cổ vũ những phương tiện truyền thông xã hội khác. Và cũng thường là để rao giảng Tin mừng và huấn giáo, Hội Thánh phải tích cực duy trì và cổ võ những phương tiện truyền thông bình dân và những hình thái diễn tả cổ truyền khác, nhìn nhận rằng trong một số xã hội, những phương tiện này còn có thể hữu hiệu hơn những phương tiện mới mẻ trong việc rao giảng Tin mừng, bởi lẽ chúng làm cho nhiều người có thể tham dự được hơn, và đạt được những mức độ cảm tình và động lực sâu xa hơn.
Sự hiện diện tràn ngập của các phương tiện truyền thông xã hội trong thế giới hiện nay không hề làm suy giảm tầm quan trọng của những phương tiện khác vốn mở ngỏ cho sự tham gia của nhiều người, và cho phép họ chủ động trong việc tạo nên và xác định tiến trình của chính truyền thông nữa. Như thế, giới bình dân và những phương tiện cổ truyền không những cung cấp một diễn đàn quan trọng cho việc diễn tả nền văn hóa địa phương mà còn phát huy sự đua tranh tích cực dự phần vào việc hình thành và sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội.
Cũng tương tự như thế, chúng tôi thông cảm mong muốn của nhiều dân tộc và đoàn thể muốn những hệ thống truyền thông và thông tin công bằng và bình đẳng hơn, giúp họ chống lại sự thống trị và lèo lái, hoặc từ ngoại quốc hoặc trong tay của những người bản xứ. Đấy là ưu tư của những quốc gia đang phát triển trước những quốc gia đã phát triển; và đó cũng thường là ưu tư của các phần tử thiểu số trong các quốc gia, đã phát triển lẫn đang phát triển. Trong mọi trường hợp, con người phải có khả năng chủ động, độc lập và có trách nhiệm tham gia vào tiến trình truyền thông, mà bằng nhiều cách thức, giúp hình thành tình cảnh sống cho họ.
B. Phát Triển Và Nâng Cấp Các Phương Tiện Truyền Thông Của Riêng Hội Thánh
17. Song song với những nỗ lực khác của Hội Thánh trong lãnh vực truyền thông dù có nhiều khó khăn tồn tại, Hội Thánh phải tiếp tục phát triển, duy trì và cổ võ các phương tiện và chương trình truyền thông xã hội của riêng giới Công giáo. Đó là báo chí Công giáo, các nhà xuất bản Công giáo, truyền thanh và truyền hình Công giáo, các văn phòng thông tin đại chúng và liên lạc truyền thông, các trường và những phương tiện huấn luyện cho và về các phương tiện truyền thông, nghiên cứu các phương tiện truyền thông, và các tổ chức, chuyên giá truyền thông có liên hệ với Hội Thánh, – đặc biệt các tổ chức truyền thông Công giáo quốc tế – với các thành viên và những cộng tác viên hiểu biết và chuyên môn của các Hội đồng Giám mục cũng như của các nhân các linh mục.
Công cuộc truyền thông Công giáo không chỉ là một chương trình thêm vào số các hoạt động đã có của Hội Thánh: truyền thông xã hội có vai trò trong mọi khía cạnh của sứ mệnh Hội Thánh. Như thế, không những nên có một kế hoạch mục vụ về truyền thông, mà truyền thông phải là một phần cốt yếu cho mọi kế hoạch mục vụ, vì nó có phần đóng góp mạnh mẽ cho mọi hoạt động tông đồ, mọi tác vụ và mọi chương trình khác.
C. Đào Tạo Các Nhà Truyền Thông Công giáo
18. Giáo dục và huấn lệnh về truyền thông phải là một phần cốt yếu trong việc đào tạo những người làm công tác mục vụ và các linh mục. Có nhiều yếu tố và khía cạnh khác biệt trong việc giáo dục và huấn luyện được yêu cầu. Chẳng hạn như trong thế giới ngày nay, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của truyền thông xã hội, các nhân sự của Hội Thánh ít ra đòi hỏi phải có được một sự hiểu biết có thể chấp nhận được về ảnh hưởng mà các kỹ thuật thông tin mới mẻ và các phương tiện truyền thông xã hội đang tác động trên cá nhân và xã hội. Như thế họ phải được chuẩn bị để hoạt động cho cả ‘những người giàu thông tin’ lẫn những người ‘nghèo thông tin’. Họ cần biết cách thức mời gọi những người khác đối thoại, tránh thứ truyền thông nhuốm vẻ thống trị, lèo lái, lợi lộc cá nhân. Đối với những ai tích cực trong công tác truyền thông trong Giáo Hội, họ cần có được những khả năng chuyên môn về truyền thông cùng với việc đào luyện về giáo thuyết và thiêng liêng.
D. Mục Vụ Chăm Sóc Những Nhân Viên Truyền Thông
19. Công việc truyền thông bao gồm những áp lực tâm lý đặc biệt và những tình trạng khó xử về đạo đức. Xét thấy tầm quan trọng của truyền thông xã hội trong việc hình thành văn hóa đương thời và tạo nên mẫu sống cho vô số các cá nhân và toàn thể xã hội, những ai chuyên môn dấn thân trong các phương tiện truyền thông trần thế và các công nghiệp truyền thông nhất thiết phải làm cho các trách nhiệm của mình nhuần thấm những lý tưởng cao cả và quyết tâm phục vụ nhân loại.
Hội Thánh có trách nhiệm tương ứng: là phát triển và cung cấp những Chương trình chăm sóc mục vụ đáp ứng cách riêng những hoàn cảnh làm việc riêng và những thách đố đạo đức đặt ra cho những chuyên gia về truyền thông. Chẳng hạn, các chương trình mục vụ loại này phải bao gồm việc đào luyện trường kỳ giúp cho những người nam, những người nữ này – mà nhiều người trong họ chân thành mong muốn được biết và được làm những điều đứng đắn về đạo đức và luân lý – giúp họ hội nhập các quy tắc đạo đức ngày càng mỹ mãn hơn vào công tác chuyên môn cũng như vào đời tư của mình.
V. YÊU CẦU VỀ KẾ HOẠCH MỤC VỤ
A. Trách Nhiệm Của Các Giám Mục
20. Nhận thức giá trị và quả thực, tính cấp bách của các yêu cầu do công tác truyền thông đề ra, các Giám mục và những người có trách nhiệm quyết định về các năng lực nhân sự và vật chất hạn hẹp của Hội Thánh cần phải dành ưu tiên cao độ và thích hợp cho công tác này, lưu ý đến hoàn cảnh của quốc gia, vùng và địa phận riêng của mình.
Ngày nay yêu cầu này còn lớn lao hơn trước kia, vì ít ra là theo một mức độ nào đó, ‘nơi vĩ đại của thời nay để rao giảng Tin mừng là truyền thông xã hội, cho tới nay Hội Thánh đã hơn kém xao nhãng’. Như Đức Thánh Cha nhận xét: ‘nói chung, ưu tiên đã được dành cho những ưu thế khác để rao giảng Tin mừng và giáo dục Kitô giáo, trong khi truyền thông xã hội bị dành riêng cho sáng kiến của cá nhân hoặc những đoàn thể nhỏ và chỉ đi vào kế hoạch mục vụ một cách thứ yếu’. Cần phải sửa chữa tình trạng này.
B. Cần Có Một Kế Hoạch Mục Vụ Về Truyền Thông Xã Hội
21. Bởi thế chúng tôi mạnh mẽ nhắc nhở rằng các địa phận, và các Hội đồng Giám mục hoặc các Hội dòng phải đưa yếu tố truyền thông vào mọi kế hoạch mục vụ. Ngoài ra, chúng tôi nhắc nhở họ phải triển khai những kế hoạch mục vụ chuyên biệt về chính truyền thông xã hội, hoặc là duyệt lại và cập nhật những kế hoạch đã có, như thế, cổ võ được tiến trình đáng mong ước là định kỳ tái duyệt xét và thích nghi. Khi thực hiện như thế, các Giám mục nên tìm sự cộng tác của các chuyên viên về truyền thông đời và các tổ chức có liên quan đến truyền thống của Hội Thánh, cách riêng bao gồm những tổ chức quốc gia và quốc tế về phim ảnh, truyền thanh, truyền hình và báo chí.
Các Hội đồng Giám mục trong một số vùng đã được trợ giúp rất tốt với những kế hoạch mục vụ xác định cụ thể các nhu cầu và mục tiêu cùng khuyến khích được sự phối hiệp các nỗ lực. Kết quả của việc học hỏi, lượng định và tham khảo ấy được đưa vào trong việc chuẩn bị các văn kiện này có thể và nên chia sẻ cho mọi cấp trong Hội Thánh, như là những dữ kiện hữu ích cho những người làm công tác mục vụ. Các kế hoạch thực tiễn và thực tế như thế cũng có thể được thích nghi cho các nhu cầu của Hội Thánh địa phương. Lẽ dĩ nhiên, chúng luôn luôn phải mở rộng cho việc duyệt lại và thích ứng theo ánh sáng của các nhu cầu đang thay đổi.
Chính văn kiện này kết thúc bằng những yếu tố về một kế hoạch mục vụ đề ra các đề mục có thể bàn đến trong các thư mục vụ và trong những tuyên bố của các chủ chăn ở cấp quốc gia và địa phương. Những yếu tố này phản ảnh các đề nghị nhận được từ các Hội đồng Giám mục và các chuyên viên về truyền thông.
KẾT LUẬN
22. Một lần nữa, chúng tôi xác quyết rằng Hội Thánh ‘nhìn nhận các phương tiện truyền thông xã hội như là ‘những hồng ân Chúa ban, phù hợp với kế đồ quan phòng của Ngài là hiệp nhất con người trong tình huynh đệ và giúp họ cộng tác vào chương trình Ngài cứu rỗi họ’. Cũng như Chúa Thánh Thần đã trợ giúp các ngôn sứ xưa kia nhận ra chương trình của Thiên Chúa qua các dấu chỉ thời đại của ngài, cũng thế, ngày nay Chúa Thánh Thần cũng trợ giúp Hội Thánh giải thích các dấu chỉ của thời đại chúng ta và thực thi các nhiệm vụ ngôn sứ của mình, mà căn bản hiện nay là nhiệm vụ học hỏi, lượng định và sử dụng đúng các kỹ thuật truyền thông và các phương tiện truyền thông xã hội.
PHỤ LỤC
23. Các điều kiện truyền thông và những cơ hội dành cho Hội Thánh trong lãnh vực truyền thông xã hội thì khác biệt nhau nơi từng quốc gia, và trong cùng một quốc gia, thì cũng khác biệt nơi cả các địa phận nữa. Bởi thế, đương nhiên là cách Hội Thánh tiếp cận với truyền thông và với môi trường văn hóa mà việc truyền thông giúp hình thành sẽ khác nhau theo địa phương, và các kế hoạch cùng sự tham dự của Hội Thánh sẽ được thích nghi theo các hoàn cảnh địa phương.
Vì thế, mỗi Hội đồng Giám mục và mỗi địa phận nên triển khai một kế hoạch mục vụ toàn diện về truyền thông, nên tham khảo những người đại diện các tổ chức truyền thông Công giáo quốc tế và quốc gia và các chuyên viên về truyền thông của địa phương. Ngoài ra, phải lưu ý đến việc truyền thông khi hình thành và thực hiện tất cả các kế hoạch mục vụ khác, kể cả những kế hoạch liên quan đến công tác xã hội, giáo dục, và truyền giảng Tin mừng. Nhiều Hội đồng Giám mục và địa phận đã triển khai được những kế hoạch như thế, trong đó, xác định được những nhu cầu của việc truyền thông, tính toán đến các mục tiêu, đáp ứng thực tế về tài chánh và phối hợp nhiều nỗ lực truyền thông khác nhau.
Các nguyên tắc chỉ đạo sau đây được đề ra nhằm giúp những người phải hoạch định các kế hoạch mục vụ như thế, hoặc những ai có nhiệm vụ lượng định các kế hoạch hiện hành.
Các nguyên tắc chỉ đạo cho việc hoạch định các kế hoạch mục vụ về Truyền thông xã hội trong địa phận, một Hội đồng Giám mục hoặc Hội đồng Thượng phụ.
24. Một kế hoạch mục vụ về truyền thông xã hội cần bao gồm những yếu tố sau:
A. Dựa trên việc tham khảo rộng rãi, nêu lên được một cái nhìn xác định các chiến thuật truyền thông cho mọi tác vụ của Hội Thánh cùng đáp ứng được các vấn đề và hoàn cảnh đương thời.
B. Khám phá hoặc lượng định, miêu tả được môi trường truyền thông nơi địa phương liên hệ, bao gồm khán giả các nhà sản xuất và các Giám đốc truyền thông xã hội, công cộng và thương mại, các nguồn tài chánh và kỹ thuật, các tổ chức và nhân sự truyền thông Công giáo, kể cả những tổ chức thuộc các cộng đoàn tu sĩ.
C. Đề xuất một cơ chế truyền thông xã hội liên quan đến Hội Thánh nhằm hỗ trợ cho việc truyền giảng Tin mừng, huấn giáo và giáo dục, công tác xã hội, cộng tác đại kết, và bao có thể, bao gồm các tương quan với công chúng, báo chí, truyền thanh, truyền hình, phim ảnh, ghi âm, hệ thống điện toán, fax, và các hình thức liên hệ của viễn thông.
D. Giáo dục việc truyền thông, nhấn mạnh đặc biệt đến mối quan hệ giữa việc truyền thông và các giá trị.
E. Các mục vụ tiếp xúc và đối thoại với các chuyên viên truyền thông, lưu ý đặc biệt đến việc phát triển đức tin và sự tăng trưởng đời sống thiêng liêng của họ.
F. Các phương thế tiếp nhận và duy trì, sự hỗ trợ tài chánh tương xứng với việc thực thi kế hoạch mục vụ ấy.
Các Tiến Trình Hoạch Định Một Kế Hoạch Mục Vụ Về Truyền Thông Xã Hội
25. Kế hoạch này nên đề ra những nguyên tắc hướng dẫn và các gợi ý giúp cho các nhà truyền thông Công giáo đặt ra những mục tiêu thực tế và các ưu tiên cho công việc của mình. Tốt hơn, phải có một đội ngũ lên kế hoạch bao gồm những người của Hội Thánh và các chuyên viên về truyền thông trong tiến trình có hai giai đoạn là:
1. Nghiên cứu
2. Hoạch định
1) Giai đoạn nghiên cứu
26. Các yếu tố của giai đoạn nghiên cứu là lượng định các nhu cầu, thâu thập các thông tin, khai thác các mô hình khác nhau của một kế hoạch mục vụ. Nó bao gồm việc phân tích môi trường truyền thông nội bộ, gồm mặt mạnh và mặt yếu của các cơ chế và các chương trình truyền thông hiện hành của Hội Thánh cũng như là các cơ hội và thách đố phải đương đầu.
Ba mô hình nghiên cứu sẽ giúp cho việc thâu thập các thông tin cần thiết là: lượng định các nhu cầu, khán giả của truyền thông, khám phá các nguồn liệu. Mô hình đầu tiên xác định các lãnh vực hoạt động mục vụ mà Hội đồng Giám mục hoặc địa phận cần phải lưu tâm đặc biệt. Mô hình thứ hai xem xét những gì hiện đang thực hiện – kể cả hiệu năng của chúng – ngõ hầu xác định được các mặt mạnh và mặt yếu của các cơ chế và các chương trình truyền thông hiện hành. Mô hình thứ ba xác định các nguồn truyền thông, kỹ thuật, nhân sự Hội Thánh có thể sử dụng, không những bao gồm các nguồn của riêng Hội Thánh mà còn cả các nguồn mà Hội Thánh có thể đạt được trong các tập đoàn thương mại, các kỹ nghệ truyền thông và các môi trường kinh tế.
2) Giai đoạn hoạch định
27. Sau khi thâu thập và học hỏi các dữ kiện này, đội ngũ hoạch định cần xác định các mục tiêu và các ưu tiên về truyền thông trong địa phận hoặc liên địa phận. Đây là bước khởi đầu của giai đoạn hoạch định. Đội ngũ hoạch định cần đề cập tới từng đề mục sau đây trong tương quan với hoàn cảnh địa phương.
28. Giáo dục
Các vấn đề thông tin và truyền thông xã hội có liên quan đến mọi cấp hoạt động mục vụ, kể cả việc giáo dục. Một kế hoạch mục vụ về truyền thông xã hội cần cố gắng:
A. Đề ra được các cơ hội giáo dục trong việc truyền thông xét như đó là những cấu tố thiết yếu của việc đào luyện tất cả những ai dấn thân vào hoạt động của Hội Thánh: các chủng sinh, các linh mục, tu sĩ nam nữ, và các giáo dân lãnh đạo.
B. Cổ vũ các trường và các đại học Công giáo đề ra những chương trình và các khóa học liên quan đến các nhu cầu về truyền thông của Hội Thánh và xã hội.
C. Đề xuất những khóa học, các nhóm, các hội nghị về kỹ thuật, việc quản trị, và các vấn đề luân lý và chính trị đặt ra cho các nhà truyền thông, các chủng sinh, các tu sĩ và giáo dân.
D. Hoạch định và thực hiện các kế hoạch về việc giáo dục truyền thông và sử dụng truyền thông cho các giáo viên, cha mẹ và học sinh.
E. Khuyến khích các nghệ sĩ và các văn sĩ sáng tạo chính xác, phản ánh các giá trị Tin mừng khi họ chia sẻ tài năng của mình qua viết lách, kịch tuồng hợp pháp, qua truyền thanh, truyền hình và phim ảnh dành cho việc giải trí và giáo dục.
F. Xác định các chiến thuật mới để rao giảng Tin mừng và dạy giáo lý khi áp dụng các kỹ thuật truyền thông và việc truyền thông xã hội.
29. Đào luyện thiêng liêng và chăm sóc mục vụ
Các chuyên viên giáo dân Công giáo và những người làm việc trong các hoạt động tông đồ về truyền thông của Hội Thánh cũng như của trần thế thường hướng đến Hội Thánh để được hướng dẫn thiêng liêng và chăm sóc mục vụ. Bởi đó, một kế hoạch về truyền thông xã hội nên tìm cách:
A. Đề ra được những cơ hội để phong phú hóa nghề nghiệp cho các nhà truyền thông Công giáo và các chuyên viên khác qua những ngày tĩnh tâm, cấm phòng, hội nghị, và các nhóm hỗ trợ nghề nghiệp.
B. Đề ra sự chăm sóc mục vụ cung cấp sự hỗ trợ cần thiết, nuôi dưỡng Đức tin của người truyền thông và duy trì cho sống động ý thức về sự cống hiến trong nhiệm vụ khó khăn là truyền thông các giá trị Tin mừng và các giá trị nhân bản chân chính cho thế giới.
30. Cộng tác
Cộng tác bao gồm chia sẻ những năng lực trong địa phận hoặc giữa các địa phận và giữa các địa phận với các tổ chức khác, như các cộng đoàn tu sĩ, các đại học, các cơ quan y tế. Một kế hoạch mục vụ về truyền thông xã hội cần được hoạch định:
A. Đề cao và cỗ võ việc tham khảo lẫn nhau giữa các đại diện Hội Thánh và các chuyên viên truyền thông, vốn là những người có nhiều điều để dạy cho Hội Thánh về việc sử dụng truyền thông.
B. Khai thác việc hợp tác sản xuất giữa các trung tâm miền và quốc gia, khuyến khích việc phát huy quảng bá, tiếp thị, và mạng lưới phân phối chung.
C. Cổ võ sự hợp tác với các hội dòng hoạt động trong việc truyền thông xã hội.
D. Cộng tác với các tổ chức đại kết và các Giáo Hội và các đoàn thể tôn giáo khác về cách thức đảm bảo việc tôn giáo tác động đến truyền thông và cộng tác vào các phương tiện truyền thông vừa mới được phát huy rộng rãi: cách riêng việc chung nhau sử dụng các vệ tinh, các ngân hàng dữ liệu, các mạng lưới dây cáp và tin học nói chung, khởi sự bằng các hệ thống tương hợp với nhau.
E. Cộng tác với các phương tiện truyền thông trần thế, đặc biệt những quan tâm chung về các vấn đề tôn giáo, đạo đức, văn hóa giáo dục và xã hội.
31. Quan hệ với đại chúng
Hội Thánh quan hệ với đại chúng có nghĩa là tích cực thông giao với cộng đồng qua các phương tiện truyền thông đời và tôn giáo. Bao hàm việc sẵn sàng thông truyền các giá trị Tin mừng và quảng bá các hoạt động và chương trình của Hội Thánh. Hội Thánh được yêu cầu làm hết sức mình nhằm đảm bảo rằng hình ảnh đích thực của mình phản ảnh được Chúa Kitô. Một kế hoạch mục vụ về truyền thông xã hội cần tìm cách:
A. Duy trì các văn phòng quan hệ với đại chúng bằng những phương tiện nhân sự và vật chất tương xứng, ngõ hầu làm cho việc thông giao giữa Hội Thánh và các cộng đồng xét như một toàn thể được nên hữu hiệu.
B. Phát hành các ấn phẩm và các chương trình truyền thanh, truyền hình và băng ghi hình có nội dung thật hay làm rõ nét sứ điệp của Tin mừng và sứ mệnh của Hội Thánh.
C. Cổ võ các giải thưởng truyền thông và các phương thế tuyên dương khác nhằm khuyến khích và trợ giúp các chuyên viên truyền thông.
D. Cử hành ngày truyền thông thế giới như phương thế cổ võ ý thức về tầm quan trọng của việc truyền thông xã hội và nâng đỡ các sáng kiến của việc truyền thông của Hội Thánh.
32. Nghiên cứu
Các chiến thuật của Hội Thánh trong lãnh vực truyền thông phải được dựa trên các kết quả nghiên cứu lành mạnh về truyền thông; tuân theo sự phân tích và lượng định đã thu thập được. Điều quan trọng là các nghiên cứu về truyền thông bao gồm các chủ đề và các đề tài có tầm quan trọng đặc biệt đối với sứ mệnh của Hội Thánh trong quốc gia sở tại và tại miền liên hệ. Một kế hoạch mục vụ cần phải được hoạch định.
A. Cổ võ các trường cao đẳng, các trung tâm nghiên cứu và các đại học nỗ lực trong các nghiên cứu nền tảng và áp dụng liên quan đến các nhu cầu và quan tâm về truyền thông của Hội Thánh và xã hội.
B. Xác định những đường lối thực tiễn để giải thích nghiên cứu về truyền thông hiện hành và áp dụng vào sứ mệnh của Hội Thánh.
C. Trợ giúp các suy tư thần học trường kỳ về các tiến trình và dụng cụ truyền thông xã hội và vai trò của chúng trong Hội Thánh và xã hội.
33. Truyền thông và thăng tiến các dân tộc
Việc truyền thông tin đến mức chi tiết và các phương tiện truyền thông xã hội cống hiến cho nhiều người cơ hội thích hợp hơn để dự phần vào nền kinh tế thế giới hiện nay kinh nghiệm được sự tự do diễn tả và góp phần vào việc cổ võ hòa bình và công lý trên thế giới. Một kế hoạch về mục vụ truyền thông xã hội cần được hoạch định.
A. Đem các giá trị Tin mừng tác động trên phạm vi rộng lớn của các hoạt động truyền thông đương thời “từ việc in sách báo cho đến truyền thông bằng vệ tinh” ngõ hầu góp phần vào việc phát huy tính liên đới quốc tế.
B. Bảo vệ lợi ích đại chúng và đảm bảo được sự tiếp cận của tôn giáo đối với truyền thông bằng cách có những lập trường có trách nhiệm, được quảng bá về các vấn đề luật lệ và chính sách truyền thông, và việc thăng tiến các hệ thống truyền thông.
C. Phân tích ảnh hưởng xã hội của các kỹ thuật truyền thông tân tiến và giúp ngăn ngừa sự chia rẽ xã hội và bất ổn định về văn hóa không xứng hợp.
D. Trợ giúp các chuyên viên truyền thông để thích ứng và nhận xét các tiêu chuẩn đạo đức, cách riêng về vấn đề trung thực, chính xác, công bằng, nết na, và tôn trọng sự sống.
E. Triển khai các chiến thuật cổ võ việc dụng rộng rãi, có trách nhiệm và có đại diện trong các phương tiện truyền thông.
F. Thực thi vai trò ngôn sứ khi dựa trên nhãn giới Tin mừng mà nói lên đúng lúc các chiều kích luân lý của những vấn đề quan trọng của đại chúng.
Đức Giám Mục Pierfranco Pastore, Thư ký.
HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
ĐẠO ĐỨC TRONG TRUYỀN THÔNG
I. NHẬP ĐỀ
1. Các phương tiện truyền thông xã hội mà con người sử dụng làm nên những điều tốt đẹp lớn lao nhưng cũng đem lại những điều tệ hại đáng kể. Dù người ta vẫn hay bảo – và trong tài liệu này chúng ta cũng sẽ thường nói rằng – “phương tiện truyền thông” gây ra điều này hay làm điều kia, nhưng chúng không phải là những sức mạnh mù quáng của thiên nhiên nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Vì cho dù các việc truyền thông có đưa tới những hậu quả ngoài ý muốn, nhưng chính con người vẫn có sự lựa chọn sử dụng các phương tiện ấy vào các mục đích tốt hay xấu, theo phương cách tốt hay xấu.
Những lựa chọn đó chính là trọng tâm của vấn đề đạo đức, được thực hiện không phải chỉ do những người tiếp nhận thông tin – những khán giả, thính giả, độc giả – mà đặc biệt do những người kiểm soát các phương tiện truyền thông xã hội và ấn định cơ chế, chính sách, nội dung của việc truyền thông ấy. Họ bao gồm các nhân viên chính phủ và các ủy viên điều hành tập đoàn, các thành viên của hội đồng quản trị, các chủ nhân, các nhà xuất bản, giám đốc đài, các chủ bút, các giám đốc bản tin, các nhà sản xuất, các văn sĩ, các thông tín viên và nhiều người khác. Đối với những người này, vấn đề đạo đức đặt ra cho họ hết sức gay gắt: các phương tiện truyền thông đang được mình sử dụng phục vụ cho điều tốt hay điều xấu?
2. Ảnh hưởng của truyền thông xã hội không hề bị phóng đại. Người ta tiếp xúc với nhau và với các biến cố qua các phương tiện ấy, rồi chúng lại hình thành nên quan điểm và giá trị của họ. Không những người ta truyền đạt và tiếp thu tin tức cũng như tư tưởng thông qua các công cụ này, mà thường họ còn thử sống theo những gì được gợi ý qua của các phương tiện truyền thông (x. Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội, Thời đại mới, số 2).
Những thay đổi nhanh chóng trong công nghệ đang làm cho các phương tiện truyền thông ngày càng lan tràn rộng rãi và mạnh mẽ. “Sự xuất hiện của xã hội thông tin thật sự là một cuộc cách mạng văn hóa” (Hội đồng Giáo hoàng về văn hóa, Để có một sự tiếp cận mục vụ đối với vấn đề văn hóa [Toward a Pastoral Approach to Culture], số 9); và những đổi mới sáng chói của thế kỷ XX có lẽ mới chỉ là một lời mở đầu cho những gì thế kỷ XXI này sẽ mang đến.
Tầm mức và chủng loại phương tiện truyền thông khác nhau mà dân chúng trong các nước giàu có thể sử dụng rất đáng kinh ngạc: sách và báo định kỳ, truyền hình và truyền thanh, phim nhựa và phim video, băng đĩa để nghe, thông tin điện tử trên các làn sóng, cáp quang và vệ tinh, qua Internet. Nội dung của các phương tiện dồi dào này có đủ loại, từ những tin tức nghiêm túc đến giải trí thuần túy, từ kinh nguyện đến hình ảnh khiêu dâm, từ suy tư đến bạo lực. Tùy thuộc vào cách sử dụng các phương tiện ấy, người ta có thể trở nên đồng cảm và thiện cảm hơn hay trở nên cô lập trong thế giới tự kỷ, tự mãn với những chất kích thích đưa tới những hậu quả gần như nghiện ma túy. Ngay cả những người tránh né các phương tiện truyền thông cũng không thể tránh tiếp xúc với những người bị ảnh hưởng sâu xa bởi các phương tiện ấy.
3. Bên cạnh các lý do vừa kể, Giáo Hội còn có những lý do riêng để quan tâm tới các phương tiện truyền thông xã hội.
Nhìn trong ánh sáng đức tin, chúng ta có thể coi lịch sử truyền thông của loài người như một cuộc hành trình dài từ tháp Babel – địa danh và biểu tượng của sự thất bại trong truyền thông (x. St 11,4-8), đến lễ Ngũ Tuần và ơn nói nhiều thứ tiếng (x. Cv 2,5-11) – hình ảnh việc truyền thông được khôi phục lại do quyền năng của Chúa Thánh Thần mà Chúa Con sai tới. Được Chúa sai vào trong thế giới để loan báo tin vui (x. Mt 28,19-20; Mc 16,15), Giáo Hội có sứ mạng công bố Tin Mừng cho tới ngày tận thế. Và Giáo Hội biết rõ việc này ngày nay đòi phải sử dụng các phương tiện truyền thông (x. Vatican II, Trong số những điều kỳ diệu, số 3; Đức Phaolô VI, Loan báo Tin Mừng, số 45; Đức Gioan Phaolô II, Sứ vụ Đấng Cứu Thế, số 37; Hội đồng Tòa Thánh về Truyền thông Xã hội, Hiệp thông và tiến bộ, số 126-134; Thời đại mới, số 11).
Giáo Hội cũng biết mình là sự “hiệp thông” (communio), một sự hiệp thông các cá nhân và các cộng đoàn Thánh Thể, “bám sâu và phản ảnh sự hiệp thông mật thiết của Ba Ngôi Thiên Chúa” (Thời đại mới, số 10; x. Thánh Bộ Giáo lý Đức tin, Một số khía cạnh của Giáo Hội, hiểu như một cộng đoàn hiệp thông). Thật vậy, mọi sự truyền thông của loài người đều xây dựng trên sự hiệp thông giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Nhưng còn hơn thế nữa, sự hiệp thông của Ba Ngôi TC đã lan tỏa đến loài người: Chúa Con là Lời, được Chúa Cha “phán ra” từ đời đời; rồi trong và qua Đức Giêsu Kitô – là Chúa Con và là Lời thành xương thành thịt – TC thông ban chính mình và ơn cứu độ cho mọi người. “Thuở xưa, nhiều lần và nhiều cách, TC đã phán với cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng trong những ngày sau hết này, Ngài nói với chúng ta qua Người Con” (Dt 1,1-2). Nếu có sự truyền thông trong Giáo Hội và bởi Giáo Hội thì đó là do bắt nguồn từ sự hiệp thông yêu thương giữa Ba Ngôi TC và từ sự truyền thông của Ba Ngôi đối với chúng ta.
4. Việc Giáo Hội tiếp cận các phương tiện truyền thông xã hội căn bản là tích cực, là rất khích lệ. Giáo Hội không đơn giản chỉ đứng phê phán và kết án; mà đúng hơn, Giáo Hội coi các phương tiện ấy không chỉ là sản phẩm của trí tuệ con người mà còn là những ân huệ to tát do Chúa ban và là những dấu chỉ thời đại đích thật (x. Trong số những điều kỳ diệu, số 1; Loan báo Tin Mừng, số 45; Sứ vụ Đấng Cứu Thế, số 37). Giáo Hội mong ước nâng đỡ những ai đang tham gia vào việc truyền thông một cách chuyên nghiệp bằng cách đưa ra những nguyên tắc tích cực để hỗ trợ họ trong công việc của họ, đồng thời ủng hộ một cuộc đối thoại trong đó mọi bên liên hệ – ngày nay, nói thế có nghĩa là hầu hết mọi người – đều có thể tham dự. Những mục tiêu đó đều hàm chứa trong tài liệu này.
Chúng tôi xin nhắc lại: các phương tiện truyền thông tự thân không làm điều gì cả; đó chỉ là những phương tiện, những công cụ, được sử dụng thế nào là tùy theo ý người ta muốn sử dụng. Khi suy nghĩ về các phương tiện truyền thông xã hội, chúng ta phải thẳng thắn đối diện với vấn đề “then chốt nhất” do các tiến bộ trong công nghệ đặt ra như con người “có trở nên thật sự tốt hơn, nghĩa là trưởng thành hơn về mặt tâm linh, ý thức hơn về phẩm giá con người, có tinh thần trách nhiệm nhiều hơn, cởi mở hơn đối với người khác, nhất là những người nghèo nàn và yếu đuối nhất, có sẵn sàng hơn để cho đi và để giúp đỡ tất cả mọi người” (Đức Gioan Phaolô II, Đấng Cứu Chuộc con người, số 15).
Chúng tôi tin chắc rằng đại đa số những người tham gia vào việc truyền thông xã hội với bất cứ khả năng nào đều là những người có lương tâm, muốn làm điều tốt. Các nhân viên chính phủ, các nhà làm chính sách và các ủy viên điều hành tập đoàn đều mong muốn tôn trọng và phát huy công ích như họ hiểu. Còn các độc giả, thính giả và khán giả lại muốn sử dụng thời giờ của mình để làm tăng trưởng và phát triển bản thân, hầu có thể sống hạnh phúc hơn, phong phú hơn. Các bậc phụ huynh lo lắng sao cho tất cả điều gì đi vào nhà mình thông qua các phương tiện truyền thông đều có lợi cho con cái mình. Hầu hết các nhà truyền thông chuyên nghiệp đều muốn sử dụng tài năng của mình để phục vụ gia đình nhân loại, và rất hoang mang khi thấy các áp lực về kinh tế, ý thức hệ ngày càng tăng muốn hạ thấp các tiêu chuẩn đạo đức đang có trong nhiều lĩnh vực truyền thông.
Những lựa chọn không biết bao nhiêu mà đếm của tất cả những con người vừa kể sẽ mang nội dung gì liên quan đến truyền thông thay đổi từ nhóm này sang nhóm kia, từ cá nhân này sang cá nhân nọ, nhưng mọi lựa chọn ấy đều có trọng lượng về mặt đạo đức và đều phải chịu sự đánh giá đạo đức. Muốn chọn cho đúng, những người ấy cần “biết những nguyên tắc của trật tự luân lý và trung thành áp dụng chúng” (Trong số những điều kỳ diệu, số 4).
5. Giáo Hội có thể đóng góp đôi điều cho cuộc thảo luận này.
Giáo Hội có một truyền thống lâu đời về sự khôn ngoan luân lý bắt nguồn từ sự mặc khải của TC và suy tư của con người (x. Đức Gioan Phaolô II, Đức tin và lý trí, số 36-48). Một phần trong truyền thống ấy là tổng hợp giáo huấn xã hội, rất căn bản và vẫn không ngừng phát triển, với định hướng thần học là sửa chữa lại cái “giải pháp ‘vô thần’ đã làm cho con người mất đi một trong các chiều kích căn bản của nó là chiều kích tâm linh, cũng như điều chỉnh lại các giải pháp của chủ trương dễ dãi và ham tiêu thụ đã dùng đủ mọi chiêu bài để thuyết phục con người rằng con người được tự do đối với hết mọi luật lệ và cả đối với TC” (Đức Gioan Phaolô II, Bách chu niên, số 55). Thay vì chỉ đưa ra lời phê phán, truyền thống khôn ngoan của Giáo Hội tự đặt mình phục vụ các phương tiện truyền thông. Chẳng hạn, “nhờ văn hóa khôn ngoan của Giáo Hội mà văn hóa thông tin của các phương tiện truyền thông không bị giản lược thành loại văn hóa góp nhặt các sự kiện một cách vô nghĩa” (Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp nhân Ngày Quốc tế Truyền thông lần 33, năm 1999).
Giáo Hội còn đóng góp một điều khác nữa cho cuộc thảo luận này. Đóng góp đặc biệt của Giáo Hội cho các sự việc của con người, kể cả cho thế giới truyền thông xã hội, “chính là đưa ra một cái nhìn về phẩm giá con người, đã được mặc khải trọn vẹn trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể” (Bách chu niên, số 47). Theo Công đồng Vatican II, “Đức Kitô là Đức Chúa, Đức Kitô là Ađam mới, khi mặc khải mầu nhiệm Chúa Cha và tình thương của Ngài, đã cho con người biết rõ về chính con người và làm sáng tỏ ơn gọi rất cao cả của con người” (Vui mừng và hy vọng, số 22).
II. TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI PHỤC VỤ CON NGƯỜI
6. Tiếp theo sau Hiến chế Mục vụ của Công đồng về Giáo Hội trong thế giới ngày nay – Hiến chế Vui mừng và hy vọng – (x. Các số 30-31) – Huấn thị Mục vụ về Truyền thông Xã hội Hiệp thông và tiến bộ đã minh định rằng các phương tiện truyền thông có mục đích là phục vụ phẩm giá con người bằng cách giúp con người sống hạnh phúc và biết hành động như những ngôi vị trong cộng đồng. Các phương tiện truyền thông sẽ làm việc này bằng cách khuyến khích mọi người ý thức phẩm giá của mình, đi sâu vào tâm tư ý nghĩ của người khác, vun trồng ý thức trách nhiệm đối với nhau, ngày càng giành được tự do cho bản thân mình mà vẫn tôn trọng sự tự do của người khác, và càng ngày càng có khả năng đối thoại nhiều hơn.
Việc truyền thông xã hội có sức mạnh to tát để phát huy hạnh phúc và sự sung mãn của con người. Không có tham vọng gì nhiều mà chỉ đưa ra một cái nhìn thoáng qua, chúng tôi muốn nhấn mạnh dưới đây, như đã từng ghi nhận nơi các tài liệu khác (x. Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội, Đạo đức trong quảng cáo, số 4-8), một số lợi ích kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục và tôn giáo do việc truyền thông xã hội mang lại.
7. Kinh tế
Thị trường không phải là một chuẩn mực luân lý hay là một nguồn giá trị luân lý, thậm chí nền kinh tế thị trường còn có thể bị lạm dụng. Nhưng thị trường có thể phục vụ con người (x. Bách chu niên, số 34), và các phương tiện truyền thông đóng một vai trò hết sức quan trọng trong một nền kinh tế thị trường. Truyền thông xã hội hỗ trợ việc kinh doanh và thương mại, giúp đẩy mạnh sự tăng trưởng kinh tế, công ăn việc làm và sự thịnh vượng; khuyến khích người ta cải thiện chất lượng của các sản phẩm, các dịch vụ đang có, đồng thời phát triển những sản phẩm và dịch vụ mới, hỗ trợ việc cạnh tranh có trách nhiệm để phục vụ công ích, giúp đỡ con người đưa ra những lựa chọn có hiểu biết bằng cách cho con người biết những sản phẩm đang có sẵn và những đặc điểm của sản phẩm.
Tóm lại, các hệ thống kinh tế quốc gia và quốc tế phức tạp như ngày hôm nay không thể hoạt động mà không có các phương tiện truyền thông. Lấy đi các phương tiện ấy là các cơ chế kinh tế then chốt sẽ sụp đổ ngay, gây thiệt hại nặng nề cho vô vàn con người và cho xã hội.
8. Chính trị
Truyền thông xã hội làm lợi cho xã hội bằng cách tạo điều kiện cho các công dân được tham gia một cách có hiểu biết vào tiến trình chính trị. Các phương tiện lôi kéo người dân lại với nhau để theo đuổi những bận tâm và mục tiêu chung, nhờ đó giúp hình thành cũng như duy trì các cộng đồng chính trị đích thật.
Các phương tiện truyền thông hết sức cần thiết trong các xã hội dân chủ hiện nay. Chúng cung cấp thông tin về các vấn đề và sự kiện, về các người nắm giữ các chức vụ và những ứng viên cho các chức vụ. Chúng giúp các nhà lãnh đạo liên lạc nhanh chóng và trực tiếp với quần chúng về các vấn đề khẩn cấp. Chúng là những phương tiện quan trọng để báo cáo trách nhiệm, làm sáng tỏ tình trạng thiếu năng lực, tham nhũng và lạm dụng lòng tin, đồng thời kéo mọi người chú ý tới những con người, tổ chức có năng lực, có tinh thần chung và tận tụy với bổn phận.
9. Văn hóa
Các phương tiện truyền thông xã hội cho phép người ta tiếp cận với văn học, kịch nghệ, âm nhạc, nghệ thuật, mà nếu không có chúng thì họ không tài nào tiếp cận được, đồng thời đẩy mạnh sự phát triển nhân bản trong lĩnh vực kiến thức, sự thông thái và thẩm mỹ. Chúng tôi không chỉ nói tới việc trình diễn các tác phẩm kinh điển và kết quả của việc học tập, mà còn muốn nói tới những hình thức giải trí bình dân lành mạnh và những thông tin hữu ích thu hút các gia đình lại với nhau, giúp mọi người giải quyết các vấn đề hằng ngày, giúp những người ốm đau, bị chôn chân tại nhà và những người già cả được lên tinh thần, làm cuộc sống bớt tẻ nhạt.
Các phương tiện truyền thông cũng giúp các tập thể thiểu số biết quý trọng và giữ gìn các truyền thống văn hóa của mình, chia sẻ chúng cho người khác và truyền chúng lại cho các thế hệ mai sau. Đặc biệt, chúng còn giúp cho trẻ em và giới trẻ biết về di sản văn hóa của dân tộc mình. Các nhà truyền thông giống như các nghệ sĩ, phục vụ công ích bằng việc giữ gìn, làm giàu kho tàng văn hóa các dân tộc và các quốc gia (x. Đức Gioan Phaolô II, Thư gửi các nghệ sĩ, số 4).
10. Giáo dục
Các phương tiện truyền thông là những công cụ quan trọng để giáo dục trong nhiều môi trường khác nhau, từ trường học đến nơi làm việc, và trong nhiều giai đoạn khác nhau của cuộc đời. Trẻ em chưa đến trường được giới thiệu những bài học cơ bản của môn tập đọc và làm toán, thanh thiếu niên có thể được học nghề hay lấy bằng, người lớn có thể học thêm trong những năm sau này của cuộc đời – những người ấy và nhiều người khác nữa, có thể thông qua những phương tiện này mà tiếp cận được nhiều nguồn giáo dục phong phú và ngày càng phát triển.
Các phương tiện truyền thông được coi là những công cụ giảng dạy tiêu chuẩn trong nhiều lớp học. Và bên ngoài trường lớp, các phương tiện truyền thông, bao gồm cả hệ thống Internet, đang vượt qua hàng rào ngăn cách và cô lập để đem các cơ hội học tập đến cho các dân làng vùng sâu vùng xa, cho các tu sĩ sống đời ẩn dật, cho những người không thể rời khỏi nhà, cho các tù nhân và nhiều người khác nữa.
11. Tôn giáo
Đời sống tôn giáo của nhiều người được phong phú lên rất nhiều nhờ các phương tiện truyền thông. Chúng đem đến cho họ các tin tức và thông tin về các sự kiện tôn giáo, các ý tưởng và nhân vật tôn giáo; chúng không khác gì các cỗ xe chuyên chở công cuộc Phúc Âm hóa và huấn giáo. Hết ngày này sang ngày khác, chúng đem lại hứng khởi, khích lệ và vận hội để làm việc thờ phượng cho những ai bị trói buộc vào nơi ở hay trong các cơ quan.
Đôi khi các phương tiện truyền thông cũng giúp cho người ta được phóng phú lên về mặt tâm linh một cách đặc biệt. Chẳng hạn vô số những khán thính giả trên khắp thế giới cùng xem, và có thể nói cùng tham gia vào các sự kiện quan trọng trong đời sống Giáo Hội vốn được đều đặn truyền phát từ Roma thông qua các vệ tinh. Và từ nhiều năm nay, các phương tiện truyền thông đã đưa các lời nói và hình ảnh trong những chuyến công du của Đức Thánh Cha đến với hàng triệu người.
12. Trong tất cả các lĩnh vực vừa kể – kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục và tôn giáo – cũng như trong nhiều lĩnh vực khác, các phương tiện truyền thông có thể được dùng để xây dựng và duy trì cộng đồng nhân loại. Và quả thật, việc truyền thông nào cũng phải rộng mở cho cộng đồng của những con người sống trong đó.
“Để trở thành anh chị em của nhau, cần phải hiểu biết nhau. Muốn hiểu biết nhau, cần phải truyền thông cho nhau một cách rộng rãi hơn và sâu xa hơn” (Thánh Bộ Đời tu, Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, số 29). Việc truyền thông thật sự phục vụ cộng đồng thì “không phải chỉ là trình bày tư tưởng và bày tỏ tình cảm. Mà ở cấp độ sâu xa nhất, đó chính là trao ban bản thân mình trong tình yêu” (Hiệp thông và tiến bộ, số 11).
Một sự truyền thông như thế sẽ luôn tìm cách đem lại sự an sinh và phát triển sung mãn cho các thành viên trong cộng đồng mà vẫn tôn trọng công ích của hết mọi người. Nhưng muốn phân định được đâu là công ích cần phải có sự tham khảo và đối thoại. Thế nên, các bên có liên quan tới việc truyền thông cần phải tham gia vào việc đối thoại ấy và khi khám phá ra đâu là điều tốt thì phải tuân theo. Bằng cách này, các phương tiện truyền thông có thể thực hiện được nghĩa vụ “làm chứng cho sự thật về cuộc sống, về phẩm giá con người, về ý nghĩa đích thật của tự do và sự phụ thuộc lẫn nhau” (Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp nhân Ngày Quốc tế Truyền thông lần thứ 33, năm 1999).
III. TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI XÂM PHẠM LỢI ÍCH CỦA CON NGƯỜI
13. Các phương tiện truyền thông cũng có thể được dùng để cản trở cộng đồng và làm hại tới lợi ích toàn diện của con người: bằng cách làm tha hóa con người hay gạt ra ngoài lề rồi cô lập con người; lôi kéo con người vào những cộng đồng băng hoại được tổ chức xoay quanh các giá trị giả dối và phá hoại; cổ vũ sự thù nghịch và xung đột, biến người khác thành ma quỷ, tạo ra một não trạng “phe ta” chống lại “phe chúng”; phô diễn những điều hèn hạ, thấp kém bằng sự hào nhoáng, trong khi lại không màng tới hay xem thường những gì cao quý và có giá trị; phổ biến những thông tin sai lạc, thất thiệt, ủng hộ những gì là xoàng xĩnh, tầm thường. Kiểu truyền thông rập khuôn (hay điển hình hóa) – căn cứ trên chủng tộc và màu da, giới tính và tuổi tác và nhiều yếu tố khác, kể cả tôn giáo – rất tiếc lại là điều thường gặp trên các phương tiện truyền thông. Truyền thông xã hội cũng thường coi nhẹ những gì là mới mẻ và quan trọng thật sự, kể cả tin mừng trong sách Phúc Âm, để tập trung vào những gì có tính cách thời thượng mau qua. Trong các lĩnh vực vừa đề cập trên đây, chúng ta luôn thấy có những sự lạm dụng.
14. Kinh tế
Các phương tiện truyền thông đôi khi được dùng để xây dựng và duy trì các hệ thống kinh tế, nhằm phục vụ cho sự chiếm hữu và tham lam. Chủ nghĩa tân tự do là một trường hợp điển hình: “Dựa trên một quan niệm thuần túy kinh tế về con người, chủ nghĩa tân tự do coi lợi nhuận và luật thị trường là thước đo duy nhất, có thể gây hại cho phẩm giá và sự kính trọng phải dành cho cá nhân và dân tộc” (Đức Gioan Phaolô II, Giáo Hội tại châu Mỹ, số 156). Trong những hoàn cảnh ấy, các phương tiện truyền thông đáng lẽ phải làm lợi cho hết mọi người thì chỉ được khai thác cho một thiểu số có lợi.
Tiến trình toàn cầu hóa “có thể tạo ra nhiều cơ hội đặc biệt cho sự thịnh vượng to lớn hơn” (Bách chu niên, số 58). Nhưng bên cạnh đó, thậm chí còn là một phần trong đó, một số quốc gia và dân tộc đã bị khai thác và gạt ra bên lề, càng ngày càng tụt lại phía sau trong cuộc tranh đua để phát triển. Những chiếc túi nghèo đói ngày càng phình ra ấy chính là đất tốt cho ghen tương, bất mãn, căng thẳng và xung đột ngày thêm phát triển. Sự kiện ấy đặt ra nhu cầu cần có “các tổ chức quốc tế hữu hiệu giám sát và điều khiển nền kinh tế để phục vụ cho phúc lợi chung” (Bách chu niên, số 58).
Đứng trước những sự bất công trầm trọng, các nhà truyền thông không thể cho rằng việc của mình chỉ là tường thuật đúng như thực tế. Chắc chắn đó là việc làm của các nhà truyền thông. Nhưng một số trường hợp đau khổ của con người phần lớn bị phớt lờ bởi các giới truyền thông, còn các trường hợp khác lại được báo cáo hẳn hoi. Nếu đây là quyết định của các nhà truyền thông thì điều đó chứng tỏ đã có sự phân biệt lựa chọn không thể bào chữa được. Còn sâu xa hơn nữa, các cơ chế và chính sách truyền thông, cũng như việc cung cấp công nghệ, tất cả đều là những yếu tố làm cho có người “giàu thông tin”, người khác lại “nghèo thông tin”, vào thời điểm mà sự thịnh vượng, thậm chí sự sống còn, còn tùy thuộc nhiều vào thông tin.
Bằng cách đó, các phương tiện truyền thông thường góp phần tạo ra những bất công và mất cân đối, là những nguyên nhân gây nên đau khổ được chính các phương tiện này tường thuật lại. “Cần phá vỡ hàng rào và sự độc quyền khiến cho nhiều quốc gia bị bỏ mặc bên lề của phát triển, cần cung cấp cho mọi cá nhân và quốc gia những điều kiện căn bản, cho phép họ chia sẻ sự phát triển” (Bách chu niên, số 35). Truyền thông và công nghệ thông tin, cùng với việc được đào tạo để sử dụng chúng, là một trong những điều kiện căn bản đó.
15. Chính trị
Các nhà chính trị thiếu lương thiện thường dùng các phương tiện truyền thông để mỵ dân, lừa dối hầu ủng hộ những chính sách bất công và chế độ áp bức. Họ trình bày sai lệch đối phương, cũng như vặn vẹo một cách hệ thống, bóp méo, che đậy sự thật bằng tuyên truyền và “thêu dệt”. Thay vì tập hợp quần chúng, các phương tiện truyền thông lại tìm cách ngăn cách họ với nhau, gây căng thẳng và nghi ngờ, dọn đường cho xung đột.
Ngay tại các nước có hệ thống dân chủ, tình trạng khá phổ biến là việc các nhà lãnh đạo chính trị dùng các phương tiện truyền thông để vận động dư luận quần chúng thay vì khuyến khích việc tham gia có hiểu biết trong tiến trình chính trị. Các quy ước dân chủ được tuân giữ, nhưng các kỹ thuật thì lại vay mượn từ quảng cáo, quan hệ quần chúng được triển khai có lợi cho các chính sách nhằm khai thác những tập thể đặc biệt và vi phạm các quyền lợi căn bản, kể cả quyền được sống” (x. Đức Gioan Phaolô II, Tin Mừng sự sống, số 70).
Các phương tiện truyền thông cũng thường phổ biến chủ nghĩa đạo đức tương đối và chủ nghĩa duy lợi ích là những chủ nghĩa tạo cơ sở cho nền văn hóa sự chết ngày nay. Các phương tiện ấy tham gia vào “âm mưu chống lại sự sống” hiện nay, “bằng cách gây uy tín cho nền văn hóa sự chết, là nền văn hóa chủ trương ngừa thai, triệt sản, phá thai và cả cái chết êm dịu là dấu hiệu của tiến bộ và chiến thắng của tự do, đồng thời mô tả những lập trường kiên quyết ủng hộ sự sống là kẻ thù của tự do và tiến bộ” (Tin Mừng sự sống, số 17).
16. Văn hóa
Các nhà phê bình thường chê bai các phương tiện truyền thông là nông cạn và nhằm vào thị hiếu tầm thường. Dù không ai bắt các phương tiện ấy phải nghiêm túc đến mức nhạt nhẽo, nhưng cũng không nên lòe loẹt và vô nghĩa như vậy. Không nên bào chữa rằng các phương tiện ấy phải phản ánh các tiêu chuẩn của đại chúng; vì các phương tiện truyền thông còn tác động lên các tiêu chuẩn của đại chúng một cách rất mạnh mẽ và vì thế, cũng có trách nhiệm nâng cao thay cho việc hạ thấp các tiêu chuẩn ấy.
Vấn đề này diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Thay vì giải thích các vấn đề phức tạp một cách cẩn thận và trung thực, các phương tiện truyền thông tin tức lại thường né tránh hay đơn giản hóa các vấn đề ấy. Các phương tiện truyền thông giải trí đưa ra những màn trình diễn đồi bại và hạ thấp phẩm giá con người, kể cả việc khai thác tính dục và bạo lực. Thật là quá vô trách nhiệm nếu bỏ qua hay bác bỏ sự kiện này: “tranh ảnh đồi trụy và dâm bạo hạ thấp giá trị tính dục, xói mòn các quan hệ nhân bản, khai thác các cá nhân – nhất là phụ nữ và người trẻ – hủy hoại hôn nhân và cuộc sống gia đình, cổ vũ các thái độ phản xã hội, làm suy yếu bản chất đạo đức của chính xã hội” (Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội, Một câu trả lời mục vụ trước tình trạng hình ảnh khiêu dâm và bạo lực trên các phương tiện truyền thông, số 10).
Trên bình diện quốc tế, việc thống trị văn hóa áp đặt qua các phương tiện truyền thông xã hội cũng đang là một vấn đề nghiêm trọng và ngày càng quy mô. Tại một số nơi các biểu hiện văn hóa truyền thống mặc nhiên bị loại khỏi các phương tiện truyền thông bình dân và đang phải đối diện với nguy cơ biến mất. Đang khi đó, các giá trị của những xã hội tục hóa và giàu có đang dần dần thay thế những giá trị truyền thống của những xã hội ít giàu có và quyền thế hơn. Khi xem xét các vấn đề này, người ta cần chú ý đặc biệt tới việc cung cấp cho trẻ em và thanh niên những màn trình diễn có thể giúp họ tiếp xúc cách sống động với di sản văn hóa của họ.
Truyền thông vượt qua hàng rào văn hóa quả là điều rất đáng ao ước. Các xã hội có thể và nên học hỏi lẫn nhau. Nhưng không được tổ chức việc truyền thông xuyên văn hóa có hại cho các nước yếu thế hơn. Ngày nay “ngay cả những nền văn hóa phổ biến nhất cũng không còn bị cô lập nữa. Chúng được hưởng lợi nhiều nhờ việc tiếp xúc được gia tăng, nhưng chúng cũng bị rất nhiều áp lực của một xu thế rất mạnh là đòi tiến tới chỗ đồng nhất” (Đi tìm một cách tiếp cận mang tính mục vụ đối với các nền văn hóa, số 33). Rất nhiều việc truyền thông chỉ đi theo một hướng – đi từ các quốc gia đã phát triển tới những quốc gia đang phát triển và nghèo nàn – và đã đặt ra nhiều vấn đề đạo đức nghiêm trọng. Chẳng lẽ người giàu không học được gì nơi người nghèo? Người quyền thế không nghe thấy tiếng nói của người yếu?
17. Giáo dục
Thay vì đẩy mạnh việc học, các phương tiện truyền thông có thể làm con người mất tập trung nữa và lãng phí thời gian. Trẻ em và người trẻ đặc biệt bị thiệt hại theo cách này, nhưng cả người lớn cũng phải xem những màn trình diễn hết sức tầm thường, vô giá trị. Một trong số các nguyên nhân khiến các nhà truyền thông lạm dụng sự tín nhiệm của người khác là vì lòng tham muốn đặt lợi nhuận lên trên con người.
Thỉnh thoảng các phương tiện truyền thông được dùng làm phương tiện nhồi sọ, nhằm kiểm soát những gì người ta biết và không cho người ta tiếp cận các thông tin mà nhà cầm quyền không muốn cho họ biết. Đây đúng là sự băng hoại của nền giáo dục chân chính, vốn tìm cách mở rộng kiến thức và kỹ năng của con người, giúp con người theo đuổi những mục tiêu đáng giá chứ không thu hẹp chân trời và kềm hãm năng lực để phục vụ cho ý thức hệ.
18. Tôn giáo
Trong mối tương quan giữa các phương tiện truyền thông xã hội với tôn giáo, cả hai phía đều có những cám dỗ.
Về phía các phương tiện truyền thông, những cám dỗ ấy là bỏ qua hay gạt ra bên lề những tư tưởng và kinh nghiệm tôn giáo; đối xử với tôn giáo một cách thiếu thông cảm, thậm chí còn khinh miệt, coi đó như một đề tài thỏa mãn tính hiếu kỳ, không đáng quan tâm cách nghiêm túc; quảng bá các hiện tượng tôn giáo nhất thời tới mức hy sinh đức tin truyền thống; nhìn các tập thể tôn giáo hợp pháp bằng ánh mắt ác cảm; đánh giá tôn giáo và kinh nghiệm tôn giáo theo những tiêu chuẩn thế tục tùy tiện, thiên vị quan điểm tôn giáo nào phù hợp với thị hiếu thế tục hơn các quan điểm không phù hợp; tìm cách giam hãm sự siêu việt trong vòng kềm tỏa của chủ nghĩa duy lý và hoài nghi. Các phương tiện truyền thông hiện nay thường phản ánh tình trạng tinh thần của con người sau thời kỳ hiện đại, là “tinh thần con người bị giam hãm trong ranh giới của nội tại, không liên hệ gì với bất cứ khía cạnh siêu việt nào” (Đức tin và lý trí, số 81).
Còn cám dỗ phía tôn giáo là có cái nhìn tiêu cực và hoàn toàn mang tính phê phán đối với các phương tiện truyền thông; không hiểu rằng các tiêu chuẩn hợp lý của việc sử dụng tốt các phương tiện truyền thông như tính khách quan và đối xử công bằng, có thể ngăn ngừa việc đối xử đặc biệt dành cho quyền lợi có tính cách định chế của tôn giáo; trình bày những thông điệp tôn giáo một cách đầy ủy mị và đã được uốn nắn, làm như chúng chỉ là những sản phẩm đưa ra để cạnh tranh trong một thị trường thừa thãi; sử dụng các phương tiện truyền thông như những công cụ kiểm soát và khống chế; áp dụng sự bí mật không cần thiết, bằng không sẽ xâm phạm tới sự thật; coi nhẹ một yêu cầu của Tin Mừng là phải hoán cải, ăn năn và sửa đổi đời sống, đồng thời thay bằng những hình thức tôn giáo tẻ nhạt chỉ đòi hỏi chút ít ở con người; cổ vũ chủ nghĩa cực đoan, cuồng tín và tôn giáo độc quyền, làm gia tăng sự khinh khi và lòng căm thù đối với các tôn giáo khác.
19. Tóm lại, người ta có thể sử dụng các phương tiện truyền thông để làm điều tốt hay điều xấu – và vấn đề ở đây là chúng ta phải lựa chọn. “Không bao giờ được quên rằng truyền thông qua các phương tiện ấy không phải là một việc làm cầu lợi chỉ nhằm khơi gợi, thuyết phục và mua bán. Càng không phải là công cụ tuyên truyền cho ý thức hệ. Đôi khi các phương tiện ấy hạ thấp con người thành những đơn vị tiêu thụ hay những tập thể cạnh tranh lợi lộc, hoặc uốn nắn các khán giả, độc giả và thính giả, coi họ chỉ là những con người vô tích sự có thể rút tỉa một lợi ích nào đó, hoặc là bán được sản phẩm hay tìm được hậu thuẫn chính trị; và tất cả những việc làm như thế đều phá hoại cộng đồng. Nhiệm vụ của việc truyền thông là đưa con người lại với nhau và làm cho cuộc sống của họ thêm phong phú, chứ không phải cô lập và khai thác con người. Nếu biết sử dụng đúng các phương tiện truyền thông, chúng ta có thể tạo dựng và duy trì được một cộng đồng nhân bản dựa trên công bằng và bác ái; càng làm được điều ấy, chúng càng trở thành những dấu chỉ của hy vọng” (Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp nhân Ngày Quốc tế truyền thông lần thứ 32, năm 1998).
IV. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC LIÊN QUAN
20. Những nguyên tắc đạo đức và chuẩn mực đạo đức trong các lĩnh vực khác cũng có thể áp dụng vào việc truyền thông xã hội. Các nguyên tắc đạo đức xã hội như liên đới, bổ sung, công bằng và công lý, chịu trách nhiệm khi sử dụng các nguồn lực chung và khi thi hành các vai trò được dân chúng tín nhiệm đều luôn luôn có thể áp dụng ở đây. Truyền thông phải luôn luôn trung thực, vì sự thật là điều kiện căn bản để có sự tự do cá nhân và để xây dựng cộng đồng chân chính giữa con người với nhau.
Đạo đức trong truyền thông xã hội không chỉ có liên quan tới những gì xuất hiện trên phim ảnh, truyền hình, trên các chương trình phát thanh, trên trang sách báo được ấn hành và trên mạng Internet, mà còn liên quan tới rất nhiều điều khác. Nói tới chiều kích đạo đức là không phải chỉ nói tới nội dung của việc truyền thông (thông điệp) và quá trình truyền thông (làm sao thực hiện việc truyền thông), mà còn tới những vấn đề căn bản có liên quan tới cơ cấu và toàn bộ hệ thống, thường bao gồm những vấn đề lớn như chính sách phân phối công nghệ và sản phẩm rất phức tạp (ai sẽ là người giàu thông tin và ai sẽ là người nghèo thông tin?). Những vấn đề này sẽ dẫn tới những vấn đề khác có liên hệ tới việc làm chủ và kiểm soát, về mặt kinh tế và chính trị. Ít ra trong các xã hội cởi mở với nền kinh tế thị trường, vấn đề đạo đức to lớn nhất có lẽ là vấn đề làm thế nào cân bằng lợi nhuận với việc phục vụ quyền lợi công chúng, quyền lợi này được hiểu theo quan niệm hướng về công ích.
Ngay cả những người thiện chí có hiểu biết không phải lúc nào cũng có thể thấy rõ ngay phải áp dụng các nguyên tắc và các chuẩn mực đạo đức vào các trường hợp cụ thể như thế nào; vì thế cần phải suy nghĩ, thảo luận và trao đổi. Chúng tôi giới thiệu những điều sau đây với hy vọng rằng sẽ tạo điều kiện cho những suy nghĩ và trao đổi đó – giữa những người làm nên chính sách truyền thông, những nhà truyền thông chuyên nghiệp, những nhà đạo đức và luân lý, những người tiếp nhận truyền thông và những người khác có liên quan.
21. Trong cả ba lĩnh vực – thông điệp, quá trình, các vấn đề liên quan đến cơ cấu và toàn bộ hệ thống – nguyên tắc đạo đức căn bản là: bản thân con người và cộng đồng con người phải là mục tiêu và thước đo cho việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội; việc truyền thông ấy phải do con người làm cho con người để phát triển toàn diện con người.
Muốn phát triển con người toàn diện, cần có đủ các nguyên vật liệu và sản phẩm, nhưng cũng cần phải quan tâm tới “chiều kích nội tâm” (Quan tâm tới xã hội, số 29; x. Số 46). Mỗi người đều đáng được hưởng những cơ hội để phát triển và lớn lên về đủ mọi mặt thể lý, trí tuệ, tình cảm, luân lý và tâm linh. Mỗi cá nhân đều có phẩm giá và tầm quan trọng không thể bị bớt xén, và không bao giờ có thể bị hy sinh cho những lợi ích tập thể.
22. Nguyên tắc thứ hai bổ sung cho nguyên tắc thứ nhất: không thể thực hiện lợi ích cho cá nhân mà tách rời với lợi ích chung của cộng đồng mà cá nhân ấy thuộc về. Cần phải hiểu lợi ích chung đó theo nghĩa bao quát, như là tổng số những mục tiêu chung chính đáng mà mọi thành phần trong cộng đồng cam kết cùng nhau theo đuổi, cũng là những mục tiêu mà cộng đồng tồn tại là để thực hiện.
Vì thế, trong khi việc truyền thông xã hội quan tâm đúng đắn tới những nhu cầu và lợi ích của các nhóm cụ thể, thì việc truyền thông cũng không được làm cho nhóm này quay ra chống đối nhóm kia – chẳng hạn như nhân danh sự đấu tranh giai cấp, chủ nghĩa quốc gia quá khích, thế thượng phong của một chủng tộc, việc thanh trừng sắc tộc và những việc làm tương tự. Phải lấy nhân đức liên đới, tức là “sự cương quyết bền bỉ và vững chãi dấn thân xây dựng ích chung” (Quan tâm tới xã hội, số 38), hướng dẫn mọi lĩnh vực của đời sống xã hội – từ kinh tế, chính trị, văn hóa đến tôn giáo.
Các nhà truyền thông và các nhà hoạch định chính sách truyền thông phải phục vụ các nhu cầu và lợi ích thật của cá nhân lẫn tập thể, ở mọi cấp độ và trong mọi lĩnh vực. Hiện nay đang có nhu cầu thúc bách cần có sự bình đẳng trên bình diện quốc tế, khi mà các của cải vật chất không được phân phối tốt đẹp giữa hai miền Bắc bán cầu và Nam bán cầu do phân phối không tốt các nguồn lực truyền thông và công nghệ thông tin, mà khả năng sản xuất cũng như tình trạng thịnh vượng lại tùy thuộc rất nhiều vào điều này. Những vấn đề ấy cũng có ngay trong các nước giàu, “khi các phương pháp sản xuất và tiêu thụ bị thay đổi liên tục, khiến cho một số kỹ năng và trình độ chuyên môn đã có của một số người bị giảm giá trị” và “khi nhiều người không theo kịp thời đại có thể dễ dàng bị gạt ra ngoài” (Bách chu niên, số 33).
Như vậy, rõ ràng là đang có nhu cầu phải cho mọi người tham gia rộng rãi vào việc đưa ra những quyết định: không những về thông điệp và quá trình truyền thông xã hội, mà còn về các vấn đề có liên quan đến toàn bộ hệ thống và việc phân phối các nguồn tài nguyên. Các nhà hoạch định có một nghĩa vụ luân lý rất nặng là phải nhìn ra các nhu cầu và lợi ích của những người dễ bị thương tổn như những người nghèo, người lớn tuổi, trẻ sơ sinh, trẻ em và thanh thiếu niên, những người bị đàn áp và gạt ra ngoài, các phụ nữ và các thành phần thiểu số, người đau yếu, kẻ tàn tật – cũng như các gia đình và các tập thể tôn giáo. Đặc biệt hiện nay, cộng đồng quốc tế và các tổ chức truyền thông quốc tế cần có một cách tiếp cận vừa rộng rãi vừa bao quát với những quốc gia và những khu vực, tại đó những gì các phương tiện truyền thông xã hội đã làm hay không làm khiến cho những tệ nạn cứ tiếp tục mãi như nghèo đói, mù chữ, đàn áp chính trị, vi phạm nhân quyền, xung đột giữa các tập thể và giữa các tôn giáo, triệt hạ những nền văn hóa bản địa.
23. Dẫu vậy, chúng tôi vẫn tin rằng “giải pháp cho các vấn đề phát sinh từ việc thương mại hóa và tư nhân hóa thiếu quy củ ấy không phải là để nhà nước kiểm soát các phương tiện truyền thông, mà là tìm cách điều chỉnh theo tiêu chuẩn phục vụ đại chúng và có khả năng chịu trách nhiệm trước công chúng nhiều hơn. Ở đây, chúng ta cần ghi nhận thêm rằng dù tại một số nước khung pháp lý và chính trị, trong đó các phương tiện truyền thông hoạt động, đang được thay đổi rất nhiều để trở nên tốt hơn, nhưng tại nhiều chỗ khác sự can thiệp của chính phủ vẫn là một phương cách để đàn áp và loại trừ” (Thời đại mới, số 5).
Đúng là phải luôn dành ưu ái cho sự tự do phát biểu (quyền tự do ngôn luận), vì “khi con người theo khuynh hướng tự nhiên muốn trao đổi ý kiến và bày tỏ lập trường của mình, không phải người ta đang sử dụng một quyền hạn, mà người ta còn đang thi hành một nghĩa vụ xã hội” (Hiệp thông và tiến bộ, số 45). Tuy nhiên, nếu xét theo khía cạnh đạo đức, điều giả định này không phải là chuẩn mực tuyệt đối, không thể thay đổi. Có nhiều trường hợp, không thể coi là tự do phát biểu, khi người ta bị phỉ báng và vu khống; cổ vũ cho hận thù và tranh chấp giữa các cá nhân hay giữa các tập thể, cổ vũ cho những hình ảnh đồi trụy và khiêu dâm, những sự mô tả bạo lực một cách bệnh hoạn. Như vậy, rõ ràng là quyền tự do phát biểu thì tuân thủ những nguyên tắc như trung thực, công bằng và tôn trọng sự riêng tư.
Các nhà truyền thông chuyên nghiệp nên tích cực tham gia vào việc khai triển và củng cố các bộ luật ứng xử đạo đức dành cho ngành nghề của mình, hợp tác với các người đại diện quần chúng. Các đoàn thể tôn giáo và các tập thể khác tương tự cũng xứng đáng dự phần vào nỗ lực không ngừng này.
24. Một nguyên tắc khác có liên hệ, đã được đề cập trước đây, liên quan tới việc quần chúng tham gia vào việc đưa ra những quyết định về chính sách truyền thông.
Nên tổ chức sự tham gia này ở mọi cấp, một cách hệ thống và mang tính đại diện thật sự chứ không thiên vị cho những nhóm cụ thể nào. Nguyên tắc này cũng áp dụng, thậm chí một cách đặc biệt, ở những nơi mà tư nhân làm chủ các phương tiện truyền thông và hoạt động vì lợi nhuận.
Để việc tham gia có hiệu quả của quần chúng, các nhà truyền thông “phải tìm cách giao tiếp với dân chúng, chứ không đơn giản chỉ nói với họ. Điều này buộc các nhà truyền thông phải biết các nhu cầu của dân chúng, ý thức được những cuộc đấu tranh của dân chúng và thể hiện mọi hình thức truyền thông với sự nhạy cảm tinh tế cho xứng với phẩm giá con người” (Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn với các chuyên gia truyền thông, tại Los Angeles, ngày 15-9-1987).
Số lượng phát hành, tỷ lệ phát sóng, “hộp thư bạn xem đài”, cùng với việc nghiên cứu thị trường được coi là những chỉ dẫn tốt nhất cho biết tình cảm của quần chúng – thực tế mà nói, đó là những chỉ dẫn duy nhất mà luật thị trường cần có để dựa vào mà hoạt động. Chắc hẳn chúng ta có thể nghe được tiếng nói của thị trường bằng những cách này. Nhưng quyết định về nội dung và chính sách truyền thông không thể chỉ giao khoán cho thị trường và cho các yếu tố kinh tế như lợi nhuận, vì chúng ta không thể cậy dựa vào đó để bảo vệ ích lợi của quần chúng nói chung hay một cách đặc biệt, bảo vệ các ích lợi chính đáng của các tập thể thiểu số.
Phản đối này có thể được giải đáp một chừng mực nào đó bằng khái niệm “chia ô”, theo đó sẽ có những tạp chí định kỳ những chương trình, đài và kênh dành riêng cho các cử tọa khác nhau. Biện pháp này chính đáng tới một mức nào đó. Nhưng không nên đẩy quá xa việc đa dạng và chuyên biệt hóa ấy – nghĩa là tổ chức sao cho các phương tiện truyền thông đáp ứng các cử tọa đã được chia thành những đơn vị càng lúc càng nhỏ hơn chủ yếu dựa vào những yếu tố kinh tế và những phương cách tiêu thụ. Các phương tiện truyền thông xã hội phải tiếp tục là “đất thánh Areopagus” (x. Sứ vụ Đấng Cứu Thế, số 37) – tức là một diễn đàn để trao đổi ý kiến và thông tin, kéo các cá nhân và tập thể xích lại gần nhau, cổ vũ tình liên đới và hòa bình. Mạng Internet đặc biệt làm dấy lên mối quan ngại về “những hậu quả hoàn toàn mới do mạng Internet đem lại: đó là đánh mất giá trị nội tại của những thông tin, là đồng nhất cách thiếu phân biệt mọi thông điệp tới mức chúng chỉ còn là những bản tin không hơn không kém, là thiếu phản hồi một cách có trách nhiệm và làm suy giảm các mối quan hệ liên vị” (Đi tìm một cách tiếp cận văn hóa mang tính mục vụ, số 9).
25. Các nhà truyền thông chuyên nghiệp không phải những người duy nhất có nghĩa vụ đạo đức.
Cử tọa, hay người tiếp nhận thông tin, cũng có những bổn phận đạo đức. Các nhà truyền thông cố gắng làm tròn trách nhiệm của mình đều xứng đáng được những cử tọa ý thức về trách nhiệm của các nhà truyền thông.
Nghĩa vụ đầu tiên của những người tiếp nhận truyền thông xã hội là phải biết phân định và lựa chọn. Họ cần hiểu biết về các phương tiện truyền thông – từ cơ chế, cách vận hành cho tới nội dung – và đưa ra những chọn lựa có trách nhiệm, theo đúng các tiêu chuẩn lành mạnh về mặt đạo đức, như phải đọc những gì, phải xem hay nghe những gì. Ngày nay, mọi người đều cần được giáo dục liên tục về các phương tiện truyền thông dưới một hình thức nào đó, bằng cách học tập cá nhân hay tham gia một chương trình có tổ chức hay bằng cả hai cách. Thay vì chỉ giảng dạy về kỹ thuật, việc giáo dục về các phương tiện truyền thông còn nhằm giúp mọi người hình thành được những mẫu mực về thị hiếu tốt và phán đoán luân lý trung thực như một hình thức đào tạo lương tâm.
Thông qua các trường học và các chương trình đào tạo, Giáo Hội sẽ cố gắng cung cấp việc giáo dục về các phương tiện truyền thông theo kiểu này (x. Thời đại mới, số 28; Hiệp thông và tiến bộ, số 107). Tuy ban đầu nhằm nói với các tổ chức đời tu, nhưng những lời sau đây cũng có thể được áp dụng rộng rãi hơn: “Một cộng đoàn đã ý thức tầm ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông cũng nên học cách sử dụng các phương tiện ấy để phát triển cá nhân và cộng đoàn, với tinh thần trong sáng của Tin Mừng và sự tự do nội tâm của những con người đã học biết Đức Kitô (x. Gl 4,17-23). Các phương tiện truyền thông ấy thường đề xuất và thậm chí áp đặt một não trạng và một kiểu sống thường đi ngược với Tin Mừng. Vì thế, chúng ta nghe thấy tại nhiều nơi nhiều người mong muốn được đào tạo sâu xa hơn để biết tiếp nhận và sử dụng các phương tiện ấy một cách vừa có sự phê bình vừa có hiệu quả” (Thánh Bộ Đời tu, Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, số 34).
Tương tự như vậy, cha mẹ có nghĩa vụ quan trọng là giúp con cái biết đánh giá và sử dụng các phương tiện truyền thông, bằng cách đào tạo lương tâm chúng cho đúng đắn và phát huy những khả năng phê bình của chúng (x. Đời sống gia đình, số 76). Vì ích lợi của con cái cũng như của chính mình, cha mẹ phải học hỏi và thực tập những kỹ năng của khán giả, thính giả và độc giả biết phân định cũng như hành động gương mẫu trong việc sử dụng cách thận trọng các phương tiện ấy tại nhà. Tùy theo tuổi tác và hoàn cảnh, trẻ em và thanh thiếu niên nên được đào tạo về những gì liên quan đến các phương tiện truyền thông, chống lại kiểu sử dụng một cách thụ động, dễ dãi và không biết phê phán, chống lại áp lực của bạn bè đồng trang lứa và kiểu khai thác kinh doanh. Các gia đình, gồm cha mẹ cùng với con cái, sẽ nhận thấy rất hữu ích khi tham gia thành từng nhóm để học hỏi và thảo luận các vấn đề và các cơ hội do việc truyền thông xã hội tạo ra.
26. Ngoài việc đẩy mạnh sự giáo dục về các phương tiện truyền thông, các cơ quan, văn phòng và chương trình của Giáo Hội còn có những trách nhiệm quan trọng khác đối với việc truyền thông xã hội. Trước hết và trên hết là làm gương trong việc tổ chức truyền thông, phản ảnh những tiêu chuẩn cao nhất như trung thực, dám chịu trách nhiệm trước công luận, biết nhạy bén đối với nhân quyền và những nguyên tắc hay chuẩn mực khác có liên quan. Hơn nữa, các phương tiện truyền thông của Giáo Hội còn phải cam kết truyền đạt trọn vẹn sự thật về ý nghĩa đời người và lịch sử con người, nhất là đúng như nó được chất chứa trong lời mạc khải của Thiên Chúa và được diễn tả qua việc giảng dạy của Huấn quyền. Các chủ chăn phải khuyến khích sử dụng các phương tiện truyền thông để phổ biến Tin Mừng (x. Giáo luật, điều 822.1).
Những vị đại diện Giáo Hội phải trung thực và thẳng thắn trong mối quan hệ với các ký giả. Ngay cả khi những câu họ hỏi “gây lúng túng và phật ý, nhất là khi chúng không phù hợp chút nào với thông điệp mà mình phải trình bày”, chúng ta cũng phải nhớ rằng “đó chính là những vấn đề khó chịu mà hầu hết những người đồng thời với chúng ta đều đặt ra” (Đi tìm một cách tiếp cận văn hóa mang tính mục vụ, số 34). Để Giáo Hội có thể nói với con người hôm nay một cách đáng tin, những người nói thay Giáo Hội phải làm sao đưa ra những câu trả lời đáng tin, trung thực cho những vấn nạn xem ra có vẻ kỳ quặc ấy.
Người Công giáo, cũng giống như các công dân khác, có quyền tự do phát biểu, bao gồm cả quyền tiếp cận các phương tiện truyền thông để đạt mục đích này. Quyền phát biểu bao gồm việc bày tỏ ý kiến về lợi ích của Giáo Hội, đi kèm với sự tôn trọng đúng mức đối với sự toàn vẹn của đức tin và luân lý, tôn trọng các vị chủ chăn và lưu tâm tới công ích và phẩm giá con người (x. Giáo luật, điều 212.3; điều 227). Tuy nhiên, không ai có quyền nói thay cho Giáo Hội hay ngầm ý làm như thế nếu không được chỉ định; ý kiến cá nhân không thể được coi như là giáo huấn của Giáo Hội (x. Giáo luật, điều 227).
Giáo Hội sẽ được phục vụ tốt nếu có nhiều người đang nắm giữ các chức vụ và đang thi hành các công tác nhân danh Giáo Hội được đào tạo về việc truyền thông. Điều này đúng không những đối với các chủng sinh, những người đang trong chương trình đào tạo tại các cộng đoàn tu trì, và các giáo dân Công giáo trẻ mà còn đúng cho toàn bộ nhân sự của Giáo Hội nói chung. Với điều kiện là “mang tính trung lập, cởi mở và ngay thẳng”, các phương tiện truyền thông đều giúp các Kitô hữu đã được chuẩn bị kỹ lưỡng đóng “vai trò ở tuyến đầu truyền giáo”; thế nên điều quan trọng là họ rất cần “được huấn luyện và hỗ trợ kỹ lưỡng”. Các chủ chăn cũng nên hướng dẫn giáo dân mình về các phương tiện truyền thông và cho họ biết đến các thông tin đôi khi bất đồng, và thậm chí cả những thông tin có tính phá hoại nữa (x. Giáo luật, điều 822.2,. 3).
Những nhận xét tương tự những nhận xét trên đây có thể áp dụng cho việc truyền thông trong nội bộ Giáo Hội. Một luồng thông tin hai chiều và một luồng quan điểm có đi có lại giữa các chủ chăn và các tín hữu, việc tự do phát biểu nhưng vẫn rất nhạy cảm về tình trạng an sinh của cộng đồng và trước vai trò của Huấn quyền trong việc cổ vũ tự do phát biểu, cũng như nêu ý kiến một cách có trách nhiệm, tất cả những việc ấy đều là những cách diễn tả quan trọng “quyền đối thoại và thông tin hết sức căn bản trong nội bộ Giáo Hội” (Thời đại mới số 10; x. Hiệp thông và tiến bộ, số 20).
Phải thi hành quyền tự do phát biểu với lòng tôn trọng các chân lý mặc khải và giáo huấn Giáo Hội, cũng như tôn trọng các quyền được Giáo Hội minh định của những người khác (x. Giáo luật, điều 212.1,. 2,. 3; Giáo luật, điều 220). Cũng như các cộng đồng và tổ chức khác, thỉnh thoảng Giáo Hội cũng cần – trong thực tế, có đôi khi buộc phải – thực hành sự kín đáo và cẩn mật. Nhưng làm điều này không phải để dễ thao túng và kiểm soát. Trong tinh thần hiệp thông đức tin, “các người nắm giữ chức vụ đã được ban cho quyền hành linh thiêng, phải dấn thân phát huy các lợi ích của anh em mình, để tất cả những ai thuộc về Dân Chúa và vì thế được ban cho phẩm giá Kitô hữu đích thật, có thể thông qua những nỗ lực tự do và có quy củ của mình mà tiến tới ích lợi chung và đạt được ơn cứu độ” (Ánh sáng muôn dân, số 18). Việc thực hiện đúng về truyền thông là một trong những phương cách thực hiện viễn tượng này.
V. KẾT LUẬN
27. Khi thiên niên kỷ thứ ba của kỷ nguyên Kitô giáo bắt đầu, nhân loại đã thành công trong việc tạo dựng một mạng lưới toàn cầu để truyền đạt ngay tức thời những tin tức, ý tưởng, bình luận giá trị về khoa học, thương mại, giáo dục, giải trí, chính trị, nghệ thuật, tôn giáo và mọi lĩnh vực khác.
Mạng lưới này, rất nhiều người đã có thể tiếp cận trực tiếp ngay tại nhà, trường học và nơi làm việc của mình – hay đúng hơn, ở bất cứ nơi nào. Ngày nay, chẳng có gì lạ khi nhìn thấy mọi biến cố, từ thể thao đến chiến tranh, xảy ra đúng lúc nó đang xảy ra ở phía bên kia hành tinh. Người ta có thể thâm nhập thẳng vào vô số dữ liệu mà chỉ cách đây một thời gian ngắn nhiều học giả và sinh viên không thể nào có được. Một cá nhân hôm nay có thể leo cao tới tận đỉnh của thiên tài và đức độ, cũng như có thể ngụp sâu tới tận đáy của sự suy đồi mà chỉ cần ngồi một mình trước bàn phím và màn hình. Công nghệ truyền thông liên tục thực hiện những cuộc đột phá, với tiềm năng khổng lồ – cho cả điều tốt lẫn điều xấu. Một khi sự tác động giao thoa ngày càng tăng thì sự khác biệt giữa người truyền thông và người tiếp nhận ngày càng ít dần. Người ta cần tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng, nhất là ảnh hưởng đạo đức, do các phương tiện mới mẻ và đang trổi vượt tạo ra.
28. Nhưng dù có sức mạnh vô biên, các phương tiện truyền thông cũng và mãi mãi chỉ là những phương tiện – tức là những công cụ, những đồ dùng có thể được sử dụng vào việc tốt hay việc xấu. Chọn lựa thế nào là quyền của chúng ta. Các phương tiện truyền thông không đòi chúng ta phải đưa ra một nền đạo đức mới; chúng ta chỉ cần áp dụng các nguyên tắc đã có vào các hoàn cảnh mới. Và đây là nhiệm vụ mà ai ai cũng có phần để làm. Đạo đức học trong việc truyền thông không phải là việc riêng của các nhà chuyên môn, bất kể là chuyên môn trong truyền thông xã hội hay trong triết học luân lý; mà đúng hơn, nó bao hàm tất cả mọi người cách rộng rãi, mà bản văn này tìm cách khuyến khích và hỗ trợ họ, thông qua suy nghĩ và đối thoại.
29. Truyền thông xã hội có thể liên kết người ta thành những cộng đồng có sự đồng cảm và bận tâm chung.
Liệu những công đồng này có được thông tin theo đúng tinh thần công bằng, lịch sự và tôn trọng nhân quyền không? Có cam kết thực hiện ích chung không? Hay những cộng đồng ấy sẽ ích kỷ và quy hướng về mình, chỉ dấn thân tìm kiếm những lợi ích cho một hai nhóm cụ thể – những tập thể kinh tế, chủng tộc, chính trị, hay tôn giáo – và gây hại cho những người khác? Liệu công nghệ mới có phục vụ được hết mọi dân tộc và quốc gia đồng thời vẫn tôn trọng các truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc và quốc gia không? Hay đó chỉ là công cụ làm giàu cho những người giàu và tăng thế lực cho những người quyền thế? Chúng ta phải lựa chọn.
Nhưng các phương tiện truyền thông cũng có thể được sử dụng để chia rẽ và cô lập. Công nghệ càng ngày càng giúp con người tập hợp các chùm thông tin và dịch vụ chỉ dành cho mình. Trong việc này có nhiều điều thật sự hữu ích nhưng nó cũng đặt ra một vấn đề không thể né tránh được: liệu cử tọa trong tương lai có thể sẽ chỉ là một số đông các cử tọa riêng rẽ cùng theo dõi một chương trình không? Trong khi công nghệ mới có thể giúp gia tăng tính độc lập cá nhân, ngược lại nó hàm chứa nhiều hậu quả không đáng ao ước lắm. Thay vì là một cộng đồng toàn cầu, hệ thống mạng trong tương lai có trở thành một mạng lưới tuy bao la nhưng phân mảnh của những cá nhân sống cô lập – tựa như những con ong trong từng cái tổ của mình – chỉ làm việc với những dữ liệu thay vì làm việc với nhau không? Trong một thế giới như thế, sự liên đới sẽ ra sao, tình yêu sẽ thế nào?
Ngay trong hoàn cảnh tốt nhất, việc truyền thông của con người vẫn có những hạn chế nghiêm trọng, vẫn còn bất toàn nhiều hay ít, và vẫn có nguy cơ bị thất bại. Thật khó cho con người để thường xuyên liên lạc với nhau một cách ngay thẳng, mà không gây thiệt hại cho nhau và còn phục vụ những lợi ích lớn nhất của mọi người. Ngoài ra, trong thế giới truyền thông, những khó khăn vốn có của việc truyền thông thường bị phóng đại bởi các ý thức hệ, bởi sự tham lam lợi nhuận và kiểm soát chính trị, bởi những sự cạnh tranh và xung đột giữa các phe nhóm, và bởi các tệ đoan xã hội khác. Nhờ các phương tiện truyền thông hiện đại mà khả năng vươn xa của việc truyền thông xã hội được tăng lên – cả về số lượng lẫn về tốc độ. Nhưng các phương tiện ấy cũng không làm cho khả năng vươn ra khỏi trí khôn để đến với trí khôn, ra khỏi con tim để đến với con tim bớt mong manh, bớt nhạy cảm, và bớt nguy cơ thất bại.
30. Như chúng tôi đã nói, những đóng góp đặc biệt mà Giáo Hội mang đến cho những cuộc thảo luận về các vấn đề này chính là đưa ra một cái nhìn về con người, về phẩm giá khôn sánh và những quyền lợi bất khả xâm phạm của con người, đồng thời giới thiệu một cái nhìn về cộng đồng nhân loại, trong đó mọi thành phần được nối kết với nhau bằng đức tính liên đới để cùng nhau theo đuổi ích lợi chung của hết mọi người. Nhu cầu cần có hai cái nhìn ấy quả là hết sức cấp bách “vào một thời điểm mà chúng ta phải đối mặt với tình trạng nhìn nhận sự việc rõ ràng là thiếu xác thực, kiểu nhìn theo đó cái phù du chóng tàn lại được quả quyết là có giá trị, còn những gì giúp phát hiện ra ý nghĩa thật của cuộc đời thì bị nghi ngờ”. Thiếu hai cái nhìn này, “nhiều người sẽ vấp ngã suốt đời tới tận bờ vực thẳm, mà không biết mình đang đi về đâu” (Đức tin và lý trí, số 6).
Đứng trước khủng hoảng ấy, Giáo Hội xuất hiện như một “nhà chuyên môn về nhân loại”, mà với khả năng chuyên môn của mình Giáo Hội “nhất thiết phải mở rộng sứ mạng tôn giáo của mình ra nhiều lĩnh vực khác nhau” của nỗ lực con người (Quan tâm tới xã hội, số 41; x. Đức Phaolô VI, Thăng tiến các dân tộc, số 13). Giáo Hội không được phép giữ sự thật về con người và cộng đồng nhân loại cho riêng mình; Giáo Hội phải chia sẻ sự thật ấy một cách rộng rãi, trong khi luôn ý thức rằng con người có thể từ chối sự thật và từ chối Giáo Hội.
Khi cố gắng cổ vũ và ủng hộ các chuẩn mực cao về đạo đức trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, Giáo Hội luôn tìm sự đối thoại và cộng tác với người khác: với các viên chức nhà nước là những người có nghĩa vụ đặc biệt bảo vệ và đẩy mạnh ích lợi chung của cộng đồng chính trị; với những người làm việc trong giới văn hóa và nghệ thuật; với các học giả và nhà giáo đang tham gia đào tạo các nhà truyền thông và cử tọa cho tương lai; với các thành viên của các Giáo Hội và các tập thể tôn giáo khác là những người đang chia sẻ nguyện ước của Giáo Hội muốn sử dụng các phương tiện truyền thông để tôn vinh Thiên Chúa, phục vụ nhân loại (x. Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội, Các tiêu chuẩn để cộng tác đại kết và liên tôn trong việc truyền thông); và đặc biệt với các nhà truyền thông chuyên nghiệp – nhà văn, nhà xuất bản, nhà báo, thông tín viên, nhà thực hiện, nhà sản xuất, kỹ thuật viên – cùng với các chủ nhân, nhà quản lý và các người hoạch định chính sách trong lĩnh vực này.
31. Bên cạnh những hạn chế của mình, việc truyền thông của con người vẫn mang dấu vết của hoạt động sáng tạo mà Thiên Chúa đã làm.
“Với cái nhìn yêu thương, người Nghệ sĩ thần linh đã truyền sang cho người nghệ sĩ loài người” – và có thể nói, cho cả người truyền thông nữa – “một tia khôn ngoan siêu phàm của mình, cho họ chia sẻ quyền năng sáng tạo của mình”. Hiểu được điều này, các nhà nghệ sĩ và truyền thông “sẽ hiểu đầy đủ bản thân mình, ơn gọi và sứ mạng của mình” (Thư gửi các nghệ sĩ, số 1).
Nhà truyền thông Kitô giáo còn có một nhiệm vụ mang tính ngôn sứ, một ơn gọi là lên tiếng chống lại các thượng đế và thần tượng giả tạo hiện nay – chủ nghĩa duy vật, khoái lạc, tiêu thụ, quốc gia hẹp hòi và nhiều điều khác nữa – bằng cách giương lên cho mọi người thấy một tập hợp các sự thật luân lý dựa trên nhân phẩm và nhân quyền, sự lựa chọn ưu tiên dành cho người nghèo, mục đích phổ quát của tài sản vật chất, tình yêu thương kẻ thù và sự kính trọng vô điều kiện dành cho hết mọi sự sống con người từ khi thụ thai đến khi chết cách tự nhiên; và tìm cách thực hiện hoàn bị hơn Nước Trời trên thế gian này, đang khi vẫn không quên rằng đến ngày tận thế, Đức Giêsu sẽ khôi phục lại tất cả và trao lại cho Chúa Cha (x. 1 Cr 15,24).
32. Dù những suy nghĩ trên đây đã được gửi tới cho hết mọi người thiện chí chứ không riêng cho người Công giáo, nhưng nay để kết thúc, thật không có gì thích hợp hơn là lấy Đức Giêsu làm người mẫu cho giới truyền thông. “Trong những ngày cuối cùng này”, Thiên Chúa Cha “đã nói với chúng ta qua Người Con” (Dt 1,2) và Người Con ấy luôn luôn truyền đạt cho chúng ta biết tình yêu của Chúa Cha cũng như ý nghĩa cuối cùng của cuộc đời.
“Khi còn sống trên thế gian Đức Kitô đã mặc khải mình là nhà truyền thông hoàn hảo. Thông qua sự nhập thể, Ngài đã đồng hóa mình với những ai muốn tiếp nhận sự truyền thông của Ngài, và Ngài đã gửi thông điệp của mình không chỉ qua lời nói mà còn qua toàn bộ cách sống của mình. Ngài nói từ trong lòng mình, nghĩa là không bị sự thúc ép của dân chúng. Ngài rao giảng thông điệp thần linh mà không sợ sệt hay phải thỏa hiệp. Ngài thích nghi với cách nói năng và kiểu suy nghĩ của dân tộc Ngài. Và Ngài đã lên tiếng về tình trạng bất ổn của thời đại họ sống” (Hiệp thông và tiến bộ, số 11).
Suốt cuộc đời công khai của Đức Giêsu, quần chúng đã kéo tới nghe Ngài giảng và dạy dỗ (x. Mt 8,1.18; Mc 2,2.4.1; Lc 5,1…). Ngài dạy họ “như một Đấng có thẩm quyền” (Mt 7,29; x. Mc 1,22; Lc 4,32). Ngài nói với họ về Chúa Cha và đồng thời kéo họ hướng về Ngài vì Ngài giải thích với họ rằng, “Tôi là đường đi, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6) và “Ai thấy tôi là đã thấy Cha” (Ga 14,9). Ngài không phí thời giờ nói những lời vô bổ hay biện hộ cho mình, ngay cả khi bị buộc tội và kết án (x. Mt 26,63; 27,12-14; Mc 15,5; 15,61). Vì “lương thực” của Ngài là làm theo ý muốn của Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài (Ga 4,34), và tất cả lời Ngài nói cũng như việc Ngài làm đều được nói, được làm theo ý hướng ấy.
Đức Giêsu thường giảng dạy dưới hình thức dụ ngôn và những truyện kể sống động, nhằm diễn tả những sự thật bằng những ngôn ngữ đơn sơ thường ngày. Không chỉ lời Ngài nói mà cả việc Ngài làm, nhất là các phép lạ, đều là những hành vi truyền thông, cho biết Ngài là ai và cho thấy quyền năng của Thiên Chúa (x. Loan báo Tin Mừng, số 12). Khi truyền thông, Ngài tỏ ra hết sức kính trọng thính giả, thông cảm với tình cảnh và nhu cầu của họ, xót thương cho những đau khổ của họ (thí dụ Lc 7,13); nhưng Ngài cũng tỏ ra hết sức cương quyết phải nói cho họ những gì họ cần nghe, bằng một cách nào đó khiến họ phải chú ý và giúp họ tiếp nhận thông điệp, nhưng không vì thế mà cưỡng bách họ hay chấp nhận thỏa hiệp, không làm họ thất vọng mà cũng không thao túng họ. Ngài mời gọi người khác mở lòng mở trí cho Ngài, vì biết rằng đó chính là cách để họ được lôi kéo đến với Ngài và Cha Ngài (thí dụ Ga 3,1-15; 4,7-26).
Đức Giêsu dạy rằng truyền thông là một hành vi luân lý: “Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra. Người tốt lấy cái tốt từ kho tàng tốt của mình, còn người xấu lấy cái xấu từ kho tàng xấu của mình. Thầy nói cho anh em biết, trong ngày phán xét mọi người sẽ phải trả lời về tất cả những lời nói vô ích mà mình đã nói; vì căn cứ trên lời nói của anh em mà anh em sẽ được công chính hóa hay bị kết án” (Mt 12,34-37). Ngài thẳng thắn cảnh giác việc làm gương xấu cho “những người bé mọn” và cảnh cáo những ai làm việc ấy thì “thà cột thớt đá vào cổ rồi ném xuống biển còn tốt hơn” (Mc 9,42; x. Mt 18,6; Lc 17,2). Ngài là người ngay thẳng, một người mà người ta có thể nói “không thấy một lời gian dối nào trên miệng” và “bị nguyền rủa, Ngài không nguyền rủa lại; bị đau khổ, Ngài không đe dọa; nhưng Ngài phó thác cho Đấng sẽ xét xử công bằng” (1 Pr 2,22-23). Ngài đòi buộc phải ngay thẳng và trung thực đồng thời lên án thói đạo đức giả, dối trá – hay bất cứ hình thức truyền thông nào bị bóp méo hay lệch lạc: “Có thì nói có, không thì nói không; mọi sự thêm thắt đều là do ma quỷ” (Mt 5,37).
33. Đức Giêsu là khuôn mẫu và chuẩn mực cho việc truyền thông của chúng ta.
Đối với những ai tham gia vào việc truyền thông xã hội, bất kể là người hoạch định chính sách hay nhà truyền thông chuyên nghiệp hoặc chỉ là người tiếp nhận hay bất cứ người nào, kết luận luôn luôn rõ ràng: “Bởi đó, hãy dẹp bỏ sự gian dối, mỗi người hãy nói thật với tha nhân vì tất cả chúng ta là chi thể của nhau… Đừng để sự xấu xa nào thoát ra khỏi miệng anh em, mà chỉ nói những lời xây dựng, tùy theo hoàn cảnh, hầu sinh ơn ích cho người nghe” (Ep 4,25.29). Phục vụ con người, xây dựng cộng đồng nhân loại trong liên đới, công bằng và bác ái, nói ra sự thật về đời sống con người và sự hoàn thành chung cuộc đời sống ấy trong Chúa, đó đã từng là, đang là và mãi mãi sẽ là nội dung đạo đức học trong lĩnh vực truyền thông.
Vatican, ngày 4-6-2000, Ngày Quốc tế Truyền thông, cũng là ngày Năm thánh dành cho những người làm báo.
JOHN P. FOLEY, Chủ Tịch
PIERFRANCO PASTORE, Thư ký.
HỘI ÐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
ÐẠO ÐỨC TRONG INTERNET
I. DẪN NHẬP
Cuộc cách mạng trong truyền thông xã hội ngày nay liên quan đến một sự tái định hình căn bản những yếu tố mà qua đó con người cảm nhận thế giới chung quanh họ, xác nhận và biểu tỏ ra điều mà họ cảm nhận. Tình trạng sẵn sàng thường xuyên của hình ảnh và ý tưởng cùng với sự truyền đạt nhanh chóng ngay cả từ lục địa này sang lục địa khác, có những hệ quả sâu sắc, cả tích cực lẫn tiêu cực, đối với sự phát triển về phương diện tâm lý, đạo đức, và xã hội của cá nhân, cấu trúc và hoạt động của xã hội, sự giao lưu giữa các nền văn hóa, sự cảm nhận và truyền đạt các giá trị, thế giới quan, ý thức hệ và niềm tin tôn giáo”1
1. Tính xác thực của những lời này càng trở nên rõ ràng hơn bao giờ trong thập niên vừa qua. Ngày nay không cần vận dụng trí tưởng tượng xa vời cũng có thể hình dung trái đất như một quả cầu nối kết, vo ve với những chuyển dịch điện tử – một hành tinh líu lo được bọc trong bề ngoài tĩnh lặng của không gian. Câu hỏi thuộc phạm vi đạo đức là liệu rằng điều này có đóng góp vào sự hình thành nhân bản thực sự và giúp cá nhân cũng như các dân tộc nên đúng như phẩm giá cao trọng của họ không.
Và, cố nhiên, trong nhiều khía cạnh, câu trả lời là có. Những phương tiện truyền thông mới là những khí cụ mạnh mẽ cho giáo dục và cho sự phong phú văn hóa, cho hoạt động thương mại và sự tham gia chính trị, cho đối thoại giữa các nền văn hóa và cho sự hiểu biết; và như chúng tôi nêu ra trong văn kiện đính kèm,2 chúng cũng phục vụ mục đích tôn giáo. Tuy nhiên, đồng tiền này còn một mặt nữa. Các phương tiện truyền thông có thể được dùng cho lợi ích của cá nhân và cộng đồng thì cũng có thể được dùng để khai thác, gây ảnh hưởng, thống trị và làm băng hoại.
2. Internet là phương tiện mới nhất và trong nhiều khía cạnh là mạnh mẽ nhất trong hàng ngũ các phương tiện truyền thông -điện tín, điện thoại, truyền thanh, truyền hình – mà đối với nhiều người đã giúp loại bỏ dần thời gian và không gian như những cản trở cho truyền thông trong suốt một thế kỷ rưỡi qua. Internet có những hệ quả to lớn cho cá nhân, quốc gia và thế giới.
Trong tài liệu này, chúng tôi muốn đưa ra một quan điểm Công Giáo về Internet, như là một khởi điểm cho sự tham gia của Giáo Hội trong cuộc đối thoại với những thành phần khác trong xã hội, đặc biệt với những nhóm tôn giáo khác, liên quan đến sự phát triển và sử dụng khí cụ kỹ thuật diệu kỳ này. Hiện nay, Internet đã được đưa vào sử dụng tốt đẹp trong nhiều lãnh vực, với lời hứa hẹn sẽ còn mang lại nhiều lợi ích hơn nữa, nhưng cũng có những tai hại gây ra do việc sử dụng không thích đáng. Internet sẽ là tốt hay xấu phần lớn là vấn đề lựa chọn – với những ai đang cân nhắc lựa chọn, Giáo Hội mang đến hai yếu tố quan trọng: cam kết của Giáo Hội đối với phẩm giá con người và truyền thống khôn ngoan về luân lý đã có từ lâu. 3
3. Cũng như đối với các phương tiện truyền thông khác, con người và cộng đồng nhân loại là trung tâm của đánh giá đạo đức về Internet. Khi đề cập đến thông điệp được truyền thông, tiến trình truyền thông, những vấn đề thuộc về cấu trúc và tổng thể trong truyền thông, “nguyên tắc đạo đức căn bản là điều này: Con người nhân bản và cộng đồng nhân bản là cùng đích và là sự đo lường việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội; truyền thông phải là từ con người đến con người cho sự phát triển tổng thể của con người”.4
Lợi ích chung – “tổng hợp các điều kiện xã hội cho phép con người, các nhóm hay các cá nhân, đạt đến sự viên mãn hoàn toàn hơn và dễ dàng hơn”5 – là nguyên tắc căn bản thứ hai cho sự đánh giá truyền thông xã hội. Lợi ích chung cần phải được hiểu bao gồm như một tổng thể những mục tiêu có giá trị mà các thành viên trong một cộng đồng gắn bó với nhau và là điều làm cho cộng đồng tồn tại để hiện thực hóa và chống đỡ. Lợi ích của các cá nhân tùy thuộc vào lợi ích chung của các cộng đồng của họ.
Nhân đức dẫn con người đến chỗ bảo vệ và đề cao lợi ích chung là tình liên đới. Ðó không phải là cảm giác về “một lòng trắc ẩn mơ hồ hay một nỗi buồn nông cạn” trước những hoạn nạn của người khác, nhưng là “một quyết tâm mạnh mẽ và bền bỉ cam kết chính mình cho lợi ích chung ; nghĩa là đứng về phía điều tốt cho mọi người và cho từng cá nhân, vì tất cả chúng ta thực sự có trách nhiệm với mọi người”6 Ðặc biệt là ngày nay tình liên đới có một chiều kích quốc tế rõ ràng và mạnh mẽ; lợi ích chung chung toàn cầu là điều chính đáng phải đề cập đến và là điều bắt buộc ta phải hành động.
4. Lợi ích chung chung toàn cầu, nhân đức liên đới, cuộc cách mạng trong các phương tiện truyền thông đại chúng và kỹ thuật thông tin, và Internet tất cả đều liên quan đến tiến trình toàn cầu hóa.
Ở mức vĩ mô, kỹ thuật mới lèo lái và hỗ trợ cho toàn cầu hóa, tạo ra một tình trạng trong đó “thương mãi và truyền thông không còn bị giới hạn bởi những đường biên giới nữa”.7 Ðiều này có những hậu quả hết sức quan trọng. Toàn cầu hóa có thể làm tăng sự phú cường và đẩy mạnh sự phát triển; nó đem đến những thuận lợi như “năng suất và gia tăng sản lượng” sự đoàn kết mạnh hơn giữa các dân tộc “một sự phục vụ cho đại gia đình nhân loại tốt hơn”8 Nhưng những phúc lợi đến nay vẫn chưa được chia sẻ đồng đều. Nhiều cá nhân, công ty, và các quốc gia đã trở nên giàu sụ trong khi lại có những người khác bị tụt hậu đằng sau. Nhiều nước đã bị đào thải ra hoàn toàn khỏi tiến trình, bị từ chối một chỗ trong thế giới mới đang được hình thành. “Toàn cầu hóa, trong khi chuyển hóa sâu sắc những hệ thống kinh tế bằng cách tạo ra những khả năng tăng trưởng bất ngờ, cũng dẫn đến tình trạng nhiều người bị đẩy ra lề đường: thất nghiệp trong nhiều quốc gia phát triển cao và nạn nghèo đói tột cùng trong quá nhiều quốc gia Nam Bán Cầu tiếp tục gạt hàng triệu người nam nữ ra khỏi tiến bộ và thịnh vượng”.9
Không có cách nào để biết rõ ràng liệu các xã hội đã bước vào tiến trình toàn cầu hóa đã lựa chọn điều này hoàn toàn tự do và được thông tin hay không. Thay vì vậy, “nhiều người, đặc biệt là những người bất lợi, cảm nhận điều này như một thứ gì đó áp đặt lên họ hơn là một tiến trình trong đó họ có thể tham gia cách tích cực”.10
Trong nhiều phần của thế giới, toàn cầu hóa đang được thúc đẩy nhanh chóng, cuốn theo thay đổi xã hội. Ðây không phải chỉ là một tiến trình kinh tế nhưng là một tiến trình văn hóa, với những khía cạnh tích cực và tiêu cực. “Những ai có liên quan đến nó thường thấy toàn cầu hóa như là một trận lụt tàn hại đe dọa những chuẩn mực xã hội đã che chở cho họ và những điểm quy chiếu văn hóa đã dẫn đường cho họ trong cuộc sống?Những thay đổi trong kỹ thuật và trong những quan hệ công việc đã tiến quá mau không đợi cho các nền văn hóa kịp đáp trả”.11
5. Một hệ quả chính của sự buông lỏng kỷ cương trong những năm gần đây là sự chuyển quyền từ các quốc gia sang những công ty đa quốc. Ðiều quan trọng là những công ty này phải được khuyến khích và giúp đỡ để dùng quyền của mình cho điều thiện của nhân loại; và điều này dẫn đến nhu cầu truyền thông và đối thoại giữa họ với các thực thể liên quan như Giáo Hội.
Việc sử dụng kỹ thuật thông tin mới và Internet cần phải được thông tin và hướng dẫn bởi một cam kết mạnh mẽ thực hành tình liên đới để phục vụ lợi ích chung, trong và giữa các quốc gia. Kỹ thuật này có thể là một phương tiện để giải quyết những vấn đề của nhân loại, đề cao sự phát triển tổng thể của cá nhân, tạo ra một thế giới được cai trị bởi công chính, hòa bình và yêu thương. Ngày nay, hơn cả lúc Chỉ Thị Mục Vụ Về Các Phương Tiện Truyền Thông đưa ra điểm này cách đây hơn 30 năm, các phương tiện truyền thông có khả năng biến mọi người ở mọi nơi trên thế giới trở nên “một bạn hàng của nhân loại”.12
Ðây là một viễn kiến đáng kinh ngạc. Internet có thể giúp hiện thực hóa viễn kiến này – cho những cá nhân, các nhóm, các nước, và nhân loại – chỉ khi nó được dùng trong ánh sáng của những nguyên tắc rõ ràng và lành mạnh, đặc biệt là tình liên đới. Việc dùng như thế là vì lợi ích của tất cả mọi người, vì “ngày nay chúng ta biết rõ một điều hơn trong quá khứ: chúng ta sẽ không bao giờ có hạnh phúc và bình an một mình, còn tệ hơn nhiều nữa nếu chống lại lẫn nhau”.13 Ðiều này sẽ là một diễn đạt của linh đạo truyền thông bao hàm “khả năng nhìn thấy điều gì là tích cực trong người khác, để chào đón nó và ca ngợi nó như một món quà từ Thiên Chúa”, cùng với khả năng “’chừa chỗ’ cho anh chị em, ‘mang gánh nặng cho nhau (Gal. 6, 2) và chống lại những cám dỗ sống ích kỷ thường xuyên đè nặng chúng ta”.14
6. Sự phổ cập của Internet cũng đưa đến một số vấn nạn đạo đức như sự riêng tư, sự an toàn và bảo mật dữ liệu, tác quyền và luật về tài sản trí tuệ, tài liệu khiêu dâm, các trạm thông tin thù hận, tán phát tin đồn và thủ tiêu nhân cách dưới lớp ngụy trang là tin tức, và còn nhiều nữa. Chúng tôi sẽ nói vắn tắt về những vấn đề này bên dưới, trong khi nhìn nhận rằng chúng đòi những phân tích và thảo luận tiếp theo bởi những bên có liên quan. Tuy vậy, về cơ bản, chúng tôi không nhìn Internet như là một nguồn gây ra các vấn nạn; chúng tôi xem nó như là một nguồn đem lại những lợi ích cho nhân loại. Nhưng những lợi ích này chỉ có thể hoàn toàn hiện thực khi các vấn nạn được giải quyết.
II. VỀ INTERNET
7. Internet có một số tính năng gây ấn tượng sâu sắc. Nó tức thời, trực tiếp, toàn cầu, phân quyền (decentralized), giao tiếp (interactive), có thể mở rộng vô hạn về nội dung và phạm vi, linh hoạt và có thể điều chỉnh ở một mức độ đáng kể. Internet là bình quyền (egalitarian), theo nghĩa là bất cứ ai với thiết bị cần thiết và một năng khiếu kỹ thuật khiêm nhường cũng có thể hiện diện cách tích cực trong không gian điện toán, công bố thông điệp của mình cho thế giới, và đòi hỏi được lắng nghe. Nó cho phép các cá nhân tham dự một cách ẩn danh, được chọn lựa vai trò, và hành động theo trí tưởng tượng; và cũng cho phép việc gia nhập vào cộng đồng với những người khác và dự phần vào việc chia sẻ. Theo sở thích của người dùng, họ có thể tích cực tham gia hoặc để bị thu hút cách thụ động vào trong “một thế giới quá chú ý đến mình, tự quy chiếu về mình, của những kích thích với những hiệu ứng gần như mơ màng”15 Internet có thể được dùng để phá tan đi sự cô lập của các cá nhân và các tập thể hay còn khoét sâu thêm sự cô lập này.
8. Cấu hình kỹ thuật nền tảng của Internet có một ảnh hưởng đáng kể đến những khía cạnh đạo đức của nó: Người ta có khuynh hướng dùng nó theo cách thế nó đã được thiết kế, và thiết kế nó cho phù hợp với cách dùng như vậy. Hệ thống mới này thật ra đã có từ thời chiến tranh lạnh ở thập niên 1960, khi nó được thiết kế để chặn đứng cuộc tấn công nguyên tử bằng cách tạo ra những mạng lưới phân tán những máy điện toán chứa đựng những dữ liệu quan yếu. Phân quyền là chìa khóa của hệ thống, vì theo cách này, như đã được lý giải, việc thiệt hại của một hay ngay cả nhiều máy điện toán cũng không đến nỗi mất hết dữ liệu.
Một viễn kiến lý tưởng của việc trao đổi tự do những thông tin và ý tưởng đã đóng một vai trò đáng khen trong việc phát triển Internet. Tuy nhiên cấu hình phân quyền cũng như thiết kế phân quyền của Mạng Nhện Toàn Cầu (World Wide Web) vào cuối thập niên 1980 đã chứng tỏ sự đồng tình với ý tưởng chống lại bất cứ áp đặt luật lệ về trách nhiệm công cộng. Một chủ nghĩa cá nhân được phóng đại liên quan đến Internet vì thế ló dạng. Internet được đề cập đến như một lãnh địa mới, một vùng đất diệu kỳ của không gian điện toán, nơi mọi thứ phát biểu đều được cho phép và luật lệ duy nhất là sự tự do cá nhân hoàn toàn để làm theo ý thích. Dĩ nhiên, điều này nghĩa là chỉ cộng đồng mà quyền lợi và quan tâm của họ được nhìn nhận thực sự trong không gian điện toán mới là cộng đồng của những người tự do cấp tiến. Lối suy nghĩ này tiếp tục ảnh hưởng trong một số giới, đã được ủng hộ bởi những lý lẽ tự do rất quen thuộc đã được dùng để biện hộ cho tài liệu khiêu dâm và bạo lực trong các phương tiện truyền thông nói chung.16
Mặc dù những người theo chủ nghĩa cá nhân cấp tiến và những người kinh doanh hiển nhiên là hai nhóm rất khác nhau; có một sự hội tụ quyền lợi giữa những người muốn Internet là nơi mà gần như mọi thứ phát biểu, bất kể xấu xa và phá hoại cỡ nào, và những ai muốn Internet là phương tiện cho hoạt động thương mại không bị làm khó dễ trên một mô hình tân tự do mà “xem lợi nhuận và quy luật thị trường như những tham số duy nhất, bất kể sự thương tổn về phẩm giá và sự tôn trọng phải có đối với cá nhân và các dân tộc”17
9. Sự bùng nổ của kỹ thuật thông tin đã gia tăng khả năng truyền thông của một số cá nhân và tập thể có thuận lợi lên gấp nhiều lần. Internet có thể phục vụ con người khi tự do và dân chủ được dùng có trách nhiệm, mở rộng những chọn lựa có thể trong cuộc sống muôn mầu, mở ra những chân trời giáo dục và văn hóa, phá tan chia rẽ, đề cao sự phát triển con người trong nhiều cách thế khác nhau. “Sự di chuyển tự do của hình ảnh và văn bản trên phạm vi toàn cầu đang chuyển hóa không chỉ những quan hệ chính trị và kinh tế giữa các dân tộc, nhưng ngay cả nhận thức của chúng ta về thế giới. Nó mở ra một loạt những khả năng cho đến nay vẫn chưa thể nghĩ ra”.18 Khi được đặt trên những giá trị cùng chia sẻ bắt nguồn từ bản tính của con người, cuộc đối thoại giữa các nền văn hóa thực hiện bởi Internet và các phương tiện truyền thông xã hội khác có thể là “một phương tiện thuận lợi cho việc xây dựng nền văn minh tình thương”.19
Nhưng đó không phải là toàn bộ câu chuyện. “Thật là nghịch lý khi chính những lực có thể dẫn đến sự truyền thông tốt hơn lại cũng có thể dẫn đến sự gia tăng khuynh hướng thu hẹp vào chính mình và trở nên xa lạ với người khác”.20 Internet có thể hiệp nhất con người, nhưng cũng có thể chia rẽ họ thành những cá nhân hay như những nhóm nghi kỵ lẫn nhau, tách biệt bởi ý thức hệ, chính trị, của cải, chủng tộc, khác biệt thế hệ, và ngay cả tôn giáo. Internet đã được dùng trong những cách thế ngạo mạn, gần như một thứ vũ khí chiến tranh, và người ta nói về nguy hiểm của “khủng bố điện toán”. Thật là một bi kịch nếu khí cụ truyền thông này với vô số tiềm năng mang con người lại với nhau bị lật lại nguồn gốc ban đầu của nó trong thời chiến tranh lạnh và trở nên một đấu trường xung đột quốc tế.
III. NHỮNG KHÍA CẠNH ÐÁNG QUAN TÂM
10. Một số những ưu tư về Internet vẫn chưa tường minh trong những điều đã đề cập cho đến nay.
Một trong những điều quan trọng nhất liên quan đến điều mà ngày nay người ta gọi là sự “chia cách điện số” (digital divide) – một dạng thức phân biệt giữa người giàu và người nghèo, trong nội bộ các nước cũng như giữa các nước với nhau, trên cơ sở tiếp cận hay thiếu sự tiếp cận với kỹ thuật thông tin mới. Trong nghĩa này, nó là một phiên bản cập nhật hóa của một chia cách cũ giữa “người giàu thông tin” và “người nghèo thông tin”
Thuật ngữ “chia cách điện số” nhấn mạnh sự kiện là các cá nhân, tập thể, và các quốc gia cần có sự tiếp cận với kỹ thuật mới để chia sẻ các lợi ích đã hứa hẹn của toàn cầu hóa và sự phát triển, và không để bị tụt hậu hơn nữa. Khách quan mà nói “cách biệt giữa những người hưởng lợi từ những phương tiện mới của thông tin và diễn đạt và những người không được tiếp cận với chúng ?Không trở nên một nguồn khó khắc phục khác của sự bất bình đẳng và phân biệt”21 Cần tìm ra những cách thức để làm cho Internet có thể được tiếp cận bởi những nhóm kém thuận lợi hơn, hoặc là trực tiếp hoặc là tối thiểu qua việc liên kết với các phương tiện truyền thông truyền thống rẻ tiền hơn. Không gian điện toán cần phải trở thành một tài nguyên thông tin và dịch vụ hoàn chỉnh không mất tiền cho mọi người với nhiều ngôn ngữ khác nhau. Những cơ quan công cộng có một trách nhiệm đặc biệt để thiết lập và duy trì những trạm thông tin như vậy.
Trong lúc nền kinh tế toàn cầu mới đang hình thành, Giáo Hội lo lắng sao cho “người thắng cuộc trong tiến trình này là nhân loại như một tổng thể” chứ không chỉ “một thế lực giàu có kiểm soát khoa học, kỹ thuật, và các nguồn tài nguyên của hành tinh này”; nghĩa là Giáo Hội ước ao “một tiến trình toàn cầu hóa phục vụ toàn bộ con người và mọi người”.22
Trong mối liên hệ này, cần nhớ rằng các nguyên nhân và hậu quả của sự chia cách không phải chỉ là kinh tế nhưng còn là kỹ thuật, xã hội và văn hóa. Do đó, chẳng hạn nếu sự chia cách của Internet gây bất lợi cho nữ giới, sự chia cách này phải được san bằng.
11. Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến những chiều kích văn hóa của những gì đang diễn ra. Cụ thể, như những khí cụ mạnh mẽ của tiến trình toàn cầu hóa, kỹ thuật thông tin mới và Internet đang truyền đi và giúp làm cho thấm sâu một nhóm những giá trị văn hóa – những lối nghĩ về những quan hệ xã hội, gia đình, tôn giáo, tình trạng nhân loại – mà sự mới mẻ và ồn ào của chúng có thể thách thức và đè bẹp những nền văn hóa truyền thống.
Ðối thoại và làm giàu các nền văn hóa lẽ đương nhiên là được mong muốn nhiều hơn. Thật vậy, “ngày nay, đối thoại giữa các nền văn hóa là đặc biệt cần thiết vì hệ quả của kỹ thuật truyền thông mới trên đời sống cá nhân và các dân tộc”.23 Nhưng đó phải là một con đường hai chiều. Các nền văn hóa có rất nhiều điều để học lẫn nhau, và đơn giản áp đặt thế giới quan, giá trị và ngay cả ngôn ngữ của một nền văn hóa lên một nền văn hóa khác không phải là đối thoại nhưng là chủ nghĩa đế quốc về văn hóa”.
Sự thống trị về văn hóa là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng khi nền văn hóa thống trị mang những giá trị sai lạc đối kháng với bản thiện của cá nhân và tập thể. Nổi bật trong các vấn nạn là việc Internet, cùng với những phương tiện truyền thông xã hội khác, đang truyền đi thông điệp mang nặng tính chất của nền văn hóa thế tục Tây phương đến con người và các xã hội mà trong nhiều trường hợp chưa chuẩn bị để đánh giá và đối phó với nó. Nhiều vấn nạn nghiêm trọng xảy ra – chẳng hạn những vấn nạn liên quan đến đời sống hôn nhân và gia đình, trong khi gia đình và hôn nhân đang trải qua “một cuộc khủng hoảng tận gốc và lan rộng”24 trong nhiều phần của thế giới.
Nhạy cảm văn hóa và sự tôn trọng đối với các giá trị và niềm tin của các dân tộc khác là bắt buộc trong những trường hợp này. Ðối thoại giữa các nền văn hóa theo hướng “giữ gìn sự khác biệt của các nền văn hóa như những diễn đạt lịch sử và sáng tạo của sự hiệp nhất sâu xa trong gia đình nhân loại, và ? Nuôi dưỡng sự hiểu biết và giao tiếp giữa chúng”25 là cần thiết để xây dựng và bảo tồn ý thức về tình liên đới quốc tế.
12. Vấn đề tự do phát biểu trên Internet cũng phức tạp tương tự và gây ra một nhóm những quan ngại khác.
Chúng tôi mạnh mẽ ủng hộ tự do phát biểu và tự do trao đổi ý kiến. Tự do tìm kiếm và hiểu biết sự thật là một nhân quyền căn bản,26 và tự do phát biểu là một đá tảng của nền dân chủ. “Con người có quyền tìm kiếm sự thật, bày tỏ và công bố ý kiến, miễn là họ tôn trọng trật tự luân lý và ích lợi chung. Họ phải được cung cấp thông tin trung thực về những vấn đề liên quan đến lợi ích chung”.27 Và ý kiến công chúng, “một diễn đạt cần thiết của bản tính con người được tổ chức thành xã hội” tuyệt đối đòi hỏi “tự do phát biểu ý tưởng và thái độ”.28
Trong ánh sáng của những yêu cầu thuộc về lợi ích chung này, chúng tôi lên án những cố gắng của các nhà chức trách muốn ngăn cản sự tiếp cận với thông tin – trên Internet hay trong các phương tiện truyền thông xã hội khác – bởi vì họ thấy nó đe dọa hay gây khó chịu cho họ, và họ muốn khống chế công chúng bằng tuyên truyền và thông tin sai lạc, hay muốn ngăn cản quyền tự do phát biểu và có ý kiến hợp pháp. Trong vấn đề này, những chế độ độc tài cho đến nay là những kẻ vi phạm tệ hại nhất; nhưng vấn đề cũng xảy ra tại các xứ sở dân chủ tự do, nơi việc truy cập vào các phương tiện truyền thông để phát biểu chính trị thường tùy thuộc vào sự giàu có, và các chính trị gia cũng như các cố vấn của họ vi phạm tính trung thực và công bằng bằng cách xuyên tạc đối phương và làm giảm nhẹ các vấn nạn đến mức lừa bịp khôn khéo.
13. Trong môi trường mới này, nghề làm báo cũng đang trải qua những thay đổi sâu sắc. Sự phối hợp giữa những kỹ thuật mới và toàn cầu hóa đã “gia tăng những quyền lực của giới truyền thông, nhưng cũng làm cho họ lệ thuộc nhiều hơn vào các áp lực ý thức hệ và thương mãi”,29 và điều này cũng đúng với nghề làm báo.
Internet là một khí cụ có hiệu quả cao trong việc đem tin tức và thông tin nhanh chóng đến với con người. Nhưng sự cạnh tranh kinh tế và bản chất mọi múi giờ (round-the-clock) của báo chí Internet cũng đóng góp vào xu hướng giật gân và tung tin đồn; vào sự pha trộn giữa tin tức, quảng cáo, và giải trí; cũng như vào một sự xuống dốc hiển nhiên trong các bản báo cáo và những bài bình luận đứng đắn. Báo chí trung thực là cần thiết cho lợi ích chung trong các nước và trong cộng đồng quốc tế. Những vấn đề hiển nhiên hiện nay trong việc thực hành nghề báo trên Internet đòi hỏi sự sửa sai nhanh chóng bởi chính các ký giả.
Lượng thông tin choáng ngợp trên Internet, nhiều thứ chưa được đánh giá về phương diện chính xác và tầm quan trọng, là một vấn đề cho nhiều người. Nhưng chúng tôi cũng quan tâm đến trường hợp người ta có thể dùng khả năng kỹ thuật của phương tiện truyền thông này cho việc cắt xén thông tin đơn giản là để thiết lập những rào cản điện tử chống lại những ý tưởng không quen thuộc. Ðó sẽ là một sự phát triển không lành mạnh trong một thế giới đa nguyên nơi con người cần phải vươn lên trong việc hiểu biết lẫn nhau. Trong khi những người dùng Internet có bổn phận phải chọn lọc và thực hiện kỷ luật tự giác, điều đó không thể dẫn đến mức cực đoan là đặt bức tường ngăn cách giữa họ và những người khác. Những hệ quả của Internet cho sự phát triển tâm lý và sức khỏe cũng cần phải được tiếp tục nghiên cứu, bao gồm cả khả năng rằng việc chìm đắm quá lâu trong thế giới ảo của không gian điện toán có thể gây hại cho một số người. Dù có rất nhiều thuận lợi trong khả năng, kỹ thuật đem đến cho con người “những gói thông tin và những dịch vụ được thiết kế riêng biệt cho họ”, điều này cũng “đưa đến một câu hỏi không thể trốn tránh được: Liệu khán giả của tương lai có trở nên một số đông khán giả của chỉ một người? Tình liên đới sẽ đi về đâu? Tình yêu sẽ đi về đâu? Trong một thế giới như thế?”30
14. Dọc theo những vấn đề chúng ta phải đương đầu với tự do phát biểu, sự toàn vẹn và chính xác của tin tức, và sự chia sẻ những ý tưởng và thông tin là một nhóm quan ngại khác gây nên bởi chủ nghĩa tự do. Ý thức hệ của chủ nghĩa tự do cấp tiến vừa sai lại vừa rất tai hại – đặc biệt, cho việc hợp pháp hóa tự do phát biểu để phục vụ cho sự thật. Sai lầm nằm ở chỗ đề cao tự do “đến một mức nó trở thành tuyệt đối, để rồi thành nguồn gốc của những giá trị ? Trong cách thế này, những yêu sách không thể tránh khỏi về sự thật biến mất, nhường chỗ của chúng cho các tiêu chuẩn thành thật, xác thực và ‘an bình với chính mình’“.31 Không có chỗ cho cộng đồng chân thật, lợi ích chung, và tình liên đới trong cách nghĩ này.
IV NHỮNG ÐỀ NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
15. Như chúng ta đã thấy, nhân đức liên đới là thước đo sự phục vụ của Internet cho lợi ích chung. Thật là phải lẽ khi thêm vào trong bối cảnh này một câu hỏi đạo đức: “Các phương tiện truyền thông đang được dùng cho điều thiện hay điều ác?”32
Nhiều cá nhân và tập thể chia sẻ trách nhiệm trong vấn đề này – chẳng hạn, các công ty đa quốc đã nói ở trên. Tất cả những người dùng Internet buộc phải dùng nó trong một cách thế hiểu biết và kỷ luật, vì những mục đích luân lý tốt; các cha mẹ phải hướng dẫn và giám sát việc sử dụng của con cái.33 Trường học và các cơ sở giáo dục khác và những chương trình dành cho trẻ em và người lớn cần cung cấp việc đào tạo việc dùng Internet cách nhạy bén như một phần của một chương trình giáo dục truyền thông hoàn chỉnh bao gồm không chỉ việc huấn luyện những năng khiếu kỹ thuật – ‘điện toán vỡ lòng’ và những khóa tương tự – nhưng còn là một khả năng hiểu biết và đánh giá sắc bén nội dung. Những ai mà quyết định và hành động của họ đóng góp vào việc định dạng cấu trúc và nội dung của Internet có một bổn phận đặc biệt nghiêm trọng phải thực thi tình liên đới trong việc phục vụ lợi ích chung.
16. Việc kiểm duyệt trước của chính quyền phải được bác bỏ; “kiểm duyệt? Chỉ nên được dùng trong trường hợp tối cần thiết”.34 Nhưng Internet không thể là một ngoại lệ so với các phương tiện truyền thông khác trong việc áp dụng các luật lệ hợp lý nhằm chống lại việc kêu gọi thù hận, nhục mạ, gian lận, tài liệu khiêu dâm trẻ em và tài liệu khiêu dâm nói chung, và các vi phạm khác. Hành vi kể là tội phạm trong những bối cảnh khác cũng kể là tội phạm trong bối cảnh của không gian điện toán, và các nhà chức trách dân sự có bổn phận và quyền để áp đặt những luật lệ ấy. Những quy định mới cũng có thể là cần thiết để đối phó với những tội ác đặc biệt trên Internet như việc reo rắc virus điện toán, ăn cắp tài liệu chứa đựng trên các đĩa cứng, và những việc tương tự.
Luật lệ trên Internet đáng ao ước, và về nguyên tắc việc tự tuân theo kỷ luật kỹ nghệ là tốt nhất. “Giải pháp cho nhiều vấn đề nảy sinh từ thương mại hóa và tư nhân hóa vô luật lệ không nằm trong tình trạng kiểm soát truyền thông nhưng trong việc kỷ luật hơn theo các tiêu chuẩn phục vụ công chúng và trong trách nhiệm lớn hơn với công chúng”.35 Các quy tắc về đạo đức kỹ nghệ có thể đóng một vai trò hữu ích, miễn là chúng có ý định đứng đắn, và phải bao gồm các đại diện của công chúng trong việc hình thành và thực thi; đồng thời song song với việc khích lệ những người làm truyền thông có trách nhiệm, cần thi hành những kỷ luật thích hợp cho những sự vi phạm, bao gồm cả việc phê bình công khai.36 Nhiều trường hợp đôi khi có thể phải cần đến sự can thiệp của nhà nước: chẳng hạn, bằng cách thiết lập những ban cố vấn tiêu biểu cho những ý kiến khác nhau trong cộng đồng.37
17. Tinh chất đa quốc và cầu nối biên giới của Internet, và vai trò của nó trong tiến trình toàn cầu hóa đòi hỏi sự hợp tác quốc tế trong việc định ra các tiêu chuẩn và thiết lập những cơ chế để đề cao và bảo vệ lợi ích chung trên toàn cầu.38 Liên quan đến kỹ thuật truyền thông, cũng như nhiều thứ khác, “có một nhu cầu cấp bách cho sự bình đẳng ở cấp quốc tế”.39 Hành động quả quyết trong lãnh vực tư cũng như công là cần thiết để san bằng và cuối cùng loại trừ sự chia cách điện số.
Nhiều vấn đề khó khăn liên quan đến Internet đòi hỏi một sự nhất trí quốc tế: chẳng hạn, làm sao bảo vệ sự riêng tư của các cá nhân và các tập thể lương thiện mà không ngăn cản các cơ quan thi hành pháp luật và lực lượng an ninh theo dõi các tội phạm và bọn khủng bố; làm sao bảo vệ tác quyền và quyền sở hữu tài sản trí tuệ mà không hạn chế việc truy nhập tới tài liệu trong lãnh vực công cộng (public domain) – và làm sao để định nghĩa chính cụm từ “lãnh vực công cộng”; làm sao thiết kế và duy trì những kho chứa thông tin bề thế miễn phí cho mọi người với nhiều ngôn ngữ khác nhau; làm sao bảo vệ quyền của nữ giới liên quan đến việc truy nhập vào Internet và những khía cạnh khác của kỹ thuật thông tin mới. Cách riêng, vấn đề làm sao san bằng chia cách điện số giữa kẻ giàu thông tin và kẻ nghèo thông tin rất cần một chú ý khẩn cấp trong các khía cạnh kỹ thuật, giáo dục và văn hóa.
Ngày nay, có một “ý thức lớn dần về tình liên đới quốc tế” đem lại cách riêng cho hệ thống Liên Hiệp Quốc “một cơ hội duy nhất để đóng góp vào sự hoàn cầu hóa tình liên đới bằng cách phục vụ như một nơi hội họp cho các quốc gia và xã hội dân sự và như một nơi hội tụ các quan tâm và nhu cầu khác nhau… Sự hợp tác giữa các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ sẽ giúp bảo đảm rằng lợi ích của các nước – dù là hợp pháp – và của các nhóm khác trong các nước đó, sẽ không được nêu ra hay bảo vệ với cái giá là sự chà đạp lợi ích hay quyền lợi của các dân tộc khác, đặc biệt những dân tộc kém may mắn”.40 Trong chiều hướng này, chúng tôi hy vọng rằng Hội Nghị Thượng Ðỉnh về Xã Hội Thông Tin được dự trù diễn ra vào năm 2003 sẽ tạo ra đóng góp tích cực cho sự bàn thảo về những vấn đề này.
18. Như chúng tôi đã nêu lên ở trên, một văn kiện đính kèm với văn kiện này gọi là “Giáo Hội Và Internet” đề cập đặc biệt đến việc sử dụng Internet của Giáo Hội và vai trò của Internet trong đời sống Giáo Hội. Ở đây chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng Giáo Hội Công Giáo, cùng với các thực thể tôn giáo khác, cần có một một sự hiện diện hữu hình và tích cực trên Internet và trở nên một bên trong cuộc đối thoại công khai về sự phát triển của nó. “Giáo Hội không giả định vai trò thống soái trong những quyết định và lựa chọn này, nhưng Giáo Hội mong giúp được bằng cách chỉ ra những tiêu chuẩn đạo đức và luân lý liên hệ đến tiến trình này – những tiêu chuẩn có thể tìm thấy trong những giá trị nhân bản và Kitô Giáo”.41
Internet có thể tạo ra những đóng góp có giá trị rất lớn lao cho cuộc sống con người. Nó có thể đẩy mạnh thịnh vượng và hòa bình, sự tăng trưởng tri thức và sáng tạo, hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc và các quốc gia trên một quy mô toàn cầu.
Nó cũng có thể giúp những người nam người nữ trong sự tìm kiếm lâu dài của họ để hiểu biết chính mình. Trong mọi thời đại, kể cả thời đại của chúng ta, người ta thường hỏi cùng những câu hỏi căn bản: “Tôi là ai? Tôi từ đâu đến và tôi sẽ đi về đâu? Tại sao có sự dữ? Cái gì diễn ra sau cuộc sống này?”42. Giáo Hội không thể áp đặt những câu trả lời, nhưng Giáo Hội có thể – và phải – công bố với thế giới những câu trả lời mà Giáo Hội đã nhận được; và hôm nay, như luôn mãi, Giáo Hội mang đến một đấng tối hậu trả lời thỏa mãn những câu hỏi sâu xa nhất về cuộc đời – Ðức Giêsu Kitô, đấng “mạc khải hoàn toàn cho con người về chính Ngài và đưa ra ánh sáng ơn gọi cao trọng nhất của Ngài”43 Như chính thế giới hôm nay, thế giới truyền thông, bao gồm cả Internet, đã được mang bởi Ðức Kitô, dù còn lộn xộn nhưng thực sự, vào bên trong biên giới của Nước Chúa và đặt để cho việc phục vụ lời cứu độ. Tuy nhiên, “thay vì giảm bớt những lo toan phát triển trái đất này, niềm trông mong một thế giới mới cần thúc giục chúng ta, vì chính nơi đây thân thể của một nhân loại mới lớn dần, tiên báo cách này cách khác thời đại đang tiến đến gần”.44
Vatican, 22.02.2002, Lễ Kính Ngai Tòa Thánh Phêrô Tông Ðồ.
+ John P. Foley, Chủ Tịch
+ Pierfranco Pastore, Thư ký
HỘI ÐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
GIÁO HỘI VÀ INTERNET
I. DẪN NHẬP
1. Quan tâm của Giáo Hội đối với Internet là một thể hiện cụ thể của mối quan tâm đã có từ lâu của Giáo Hội đối với các phương tiện truyền thông xã hội. Trong khi xem các phương tiện truyền thông như là một thành quả của tiến trình khoa học lịch sử theo đó con người “tiến xa hơn nữa trong việc khám phá những tài nguyên và những giá trị chứa đựng trong toàn thể kỳ công sáng tạo” 1, Giáo Hội thường tuyên bố niềm xác tín của mình, theo cách nói của Công Ðồng Vatican II, rằng chúng là “những sáng tạo kỹ thuật diệu kỳ”2 đã đáp ứng rất nhiều những nhu cầu của con người và ngay cả có thể còn làm hơn thế nữa.
Chính vì thế, Giáo Hội đã chọn bước tiến về cơ bản là tích cực đối với các phương tiện truyền thông. 3 Ngay cả khi lên án những lạm dụng nghiêm trọng, những tài liệu của Hội Ðồng Giáo Hoàng Về Truyền Thông Xã Hội đã liên tục cố gắng làm rõ rằng “một thái độ kiểm duyệt đơn giản về phần Giáo Hội… vừa không đầy đủ mà lại còn là không thích hợp”. 4
Khi trích dẫn lời của Ðức Giáo Hoàng Piô thứ XII trong thông điệp Miranda Prorsus năm 1957, Chỉ Dẫn Mục Vụ Về Các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội Communio et Progressio, được xuất bản năm 1971, đã nhấn mạnh điểm này: “Giáo Hội xem các phương tiện truyền thông này là ‘quà tặng của Thiên Chúa’ mà, theo dự định quan phòng của Ngài, hiệp nhất nhân loại trong tình huynh đệ và như thế giúp họ hợp tác với kế hoạch của Ngài cho ơn cứu độ của họ”.5 Ðiều này cũng là quan điểm của chúng tôi, và đó là quan điểm chúng tôi chọn đối với Internet.
2. Theo hiểu biết của Giáo Hội, lịch sử của truyền thông nhân loại giống như một cuộc hành trình dài, đem nhân loại “từ dự án tháp Babel lèo lái bởi lòng kiêu ngạo và sự sụp đổ trong hoang mang và không thể hiểu biết lẫn nhau do dự án này gây ra (xem. Gen 11:1-9), đến Ngày Lễ Ngũ Tuần và ơn nói nhiều tiếng lạ: một sự phục hồi truyền thông, lấy Ðức Giêsu làm trung tâm điểm, qua các tác động của Chúa Thánh Thần”.6 Trong sự sống, sự chết, và sự phục sinh của Ðức Kitô “truyền thông giữa con người tìm thấy lý tưởng cao nhất của nó và tìm thấy gương tối cao nơi Thiên Chúa đấng đã trở nên con người và nên anh em với nhân loại”. 7
Những phương tiện truyền thông xã hội hiện đại là những yếu tố văn hóa đóng một vai trò trong câu chuyện này. Như Công Ðồng Vatican II nhận xét: “mặc dù chúng ta cần phải cẩn thận phân biệt một cách rõ ràng tiến bộ trần thế với sự tăng trưởng của vương quốc Chúa Kitô”, “tiến bộ này nằm trong mối quan tâm thiết yếu của Nước Chúa vì nó có thể đóng góp vào việc sắp đặt tốt hơn trật tự trong xã hội loài người “.8 Trong khi đánh giá các phương tiện truyền thông xã hội dưới ánh sáng này, chúng ta thấy rằng chúng “đóng góp lớn lao cho sự lớn mạnh và sự phong phú trí tuệ con người và cho sự truyền bá và củng cố Nước Chúa”.9
Ngày nay, điều này áp dụng cách đặc biệt cho Internet, là phương tiện truyền thông đang giúp đem lại những thay đổi có tính cách mạng trong thương mại, giáo dục, chính trị, báo chí, quan hệ giữa các dân tộc và giữa các nền văn hóa – những thay đổi không chỉ trong cách thế con người giao tiếp với nhau nhưng cả trong cách thế họ hiểu biết cuộc sống. Trong một tài liệu đính kèm, Ðạo Ðức trong Internet, chúng ta bàn thảo những vấn đề này trong chiều kích đạo đức. 10 Ở đây, chúng ta xem xét những hệ quả của Internet đối với tôn giáo và đặc biệt đối với Giáo Hội Công Giáo.
3. Giáo Hội có một mục tiêu gồm hai mặt liên quan đến các phương tiện truyền thông. Một mặt là thúc đẩy sự phát triển đúng đắn và sự sử dụng thích đáng các phương tiện truyền thông vì lợi ích của sự phát triển nhân loại, công lý và hòa bình – cho sự thăng tiến của xã hội ở cấp địa phương, quốc gia và các cấp cộng đồng dưới ánh sáng của lợi ích chung và trong một tinh thần liên đới. Khi xem xét tầm quan trọng lớn lao của truyền thông xã hội, Giáo Hội tìm kiếm “một sự đối thoại thành thật và tôn trọng với những ai chịu trách nhiệm trong ngành truyền thông xã hội” – một sự đối thoại liên quan chủ yếu đến sự hình thành chính sách của các phương tiện truyền thông. 11 Về phía Giáo Hội, sự đối thoại này liên quan đến những nỗ lực nhằm hiểu biết phương tiện truyền thông – mục đích của chúng, các trình tự, các hình thái và chủng loại, các cấu trúc nội tại và các phương thức – và để đưa ra sự hỗ trợ và khích lệ với những ai liên quan đến các hoạt động truyền thông. Trên căn bản của sự hiểu biết và ủng hộ thiện cảm này, có thể đưa ra những đề nghị có ý nghĩa cho việc tháo bỏ những cản trở cho tiến bộ nhân loại và cho việc công bố Tin Mừng. 12
Nhưng quan tâm của Giáo Hội còn liên quan đến việc truyền thông trong và bởi chính Giáo Hội. Loại truyền thông này vượt xa sự áp dụng kỹ thuật, vì nó “tìm thấy điểm xuất phát trong sự hiệp thông yêu thương giữa các Ngôi Vị Chí Thánh và việc truyền thông giữa các Ngài với chúng ta”, và trong nhận thức rằng truyền thông của Ba Ngôi “đến với loài người: Ngôi Con là Lời, được ‘nói’ muôn đời bởi Chúa Cha; trong và qua Ðức Giêsu Kitô, Ngôi Con và Lời đã hóa thành nhục thể, Thiên Chúa truyền thông chính Ngài và ơn cứu độ của Ngài cho người nữ, người nam”. 13
Thiên Chúa tiếp tục truyền thông với nhân loại qua Giáo Hội, người mang lấy và gìn giữ mạc khải của Ngài, người duy nhất với chức trách dạy dỗ đã được ủy thác nhiệm vụ diễn giải trung thực lời Ngài.14 Hơn thế nữa, chính Giáo Hội là một “communion”, một sự hiệp thông của cá nhân và các cộng đoàn thánh thể do bởi và phản ảnh sự hiệp thông của Ba Ngôi; 15 truyền thông do đó là đặc trưng của Giáo Hội. Ðiều này, trên tất cả mọi lý do khác, là lý do tại sao “việc thực hành truyền Thông của Giáo Hội phải là gương mẫu, phản ảnh các tiêu chuẩn cao nhất của sự đúng đắn, khả tín, và nhậy cảm đối với nhân quyền, và các nguyên tắc cũng như các chuẩn mực khác”.16
4. Thông điệp Communio et Progressio cách đây ba thập niên đã chỉ ra rằng “các phương tiện truyền thông hiện đại đem lại những cách thế mới để đưa con người đối diện với thông điệp của Tin Mừng”.17 Ðức Thánh Cha Phaolô VI nói rằng Giáo Hội “có lỗi trước mặt Chúa” nếu không sử dụng các phương tiện truyền thông cho việc truyền bá Tin Mừng. 18 Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gọi các phương tiện truyền thông là “Areopagus [trên đồi Ares nơi đặt tòa án tối cao của người Athens thờ xa xưa – chú thích của người dịch] đầu tiên của thời hiện đại”, và tuyên bố rằng “Sử dụng các phương tiện truyền thông chỉ để loan truyền thông điệp Kitô Giáo và huấn giáo chân thật của Giáo Hội là chưa đủ. Cần phải hội nhập thông điệp này trong ‘nền văn hóa mới’ đã được hình thành bởi truyền thông hiện đại”.19 Ngày nay, sự thực hiện điều này còn quan trọng hơn thế nữa vì bên cạnh việc các phương tiện truyền thông ngày nay ảnh hưởng mạnh mẽ đến điều mà người ta nghĩ về cuộc sống, còn có một cấp độ lớn hơn “con người cảm nhận chính nó trong cảm nhận của các phương tiện truyền thông”.20
ất cả điều này áp dụng cho Internet. Và cho dù thế giới truyền thông “đôi khi tỏ ra ác cảm với thông điệp Kitô Giáo, nó cũng đem lại những cơ hội độc nhất cho việc công bố Tin Mừng cứu độ của Ðức Kitô cho toàn thể nhân loại. Hãy xem…những khả năng tích cực của Internet nhằm chuyển tải những thông tin tôn giáo và giáo huấn vượt mọi rào cản và biên giới. Một số thính giả rộng lớn như vậy vượt quá trí tưởng tượng phong phú nhất của những người truyền giảng Tin Mừng đi trước chúng ta…Người Công Giáo không nên sợ mở rộng cửa truyền thông xã hội ra cho Chúa Kitô, để Tin Mừng của Ngài có thể được nghe từ trên những mái nhà của thế giới”.21
II. CƠ HỘI VÀ THÁCH ÐỐ
5. “Truyền thông trong và bởi Giáo Hội về bản chất là những truyền thông về Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô. Ðó là việc công bố Tin Mừng như một lời có tính tiên tri và giải thoát cho những người nam, người nữ trong thời đại chúng ta; đó là lời chứng cho sự thật thánh thiện và cho phẩm giá cao trọng của con người trước sự tục hóa tận gốc; đó là chứng tá được đưa ra trong tình liên đới với tất cả những tín hữu, chống lại sự tranh chấp và chia rẽ để minh chứng cho công lý và sự hiệp thông giữa các dân tộc, các quốc gia và các nền văn hóa”.22
Do việc công bố Tin Mừng cho con người sống trong một nền văn hóa truyền thông đòi hỏi sự suy xét thận trọng những đặc tính của chính các phương tiện truyền thông, Giáo Hội ngày nay cần hiểu về Internet. Ðiều này là cần thiết để giao tiếp hiệu quả với con người – đặc biệt với những người trẻ – những người đang chìm ngập trong kỹ thuật này; và cũng để Giáo Hội thể dùng nó tốt hơn.
Các phương tiện truyền thông đem đến những lợi ích quan trọng và những thuận lợi từ góc độ tôn giáo: “Chúng chuyển tải tin tức và thông tin về các biến cố tôn giáo, các ý tưởng, và các nhân cách; chúng được dùng như phương tiện truyền bá Tin Mừng và giáo lý. Ngày qua ngày, chúng đem đến sự linh hứng, khích lệ và những cơ hội cho những cá nhân bị bó gối trong nhà hay trong những cơ sở”.23 Nhưng trỗi vượt trên tất cả các phương tiện truyền thông, Internet đem lại những ích lợi rất đặc biệt. Nó cho phép người ta trực tiếp và tức khắc tiếp cận những tài nguyên tôn giáo và tâm linh quan trọng – những thư viện khổng lồ, những nhà bảo tàng và những nơi thờ phượng, những văn kiện giáo huấn của Huấn Quyền, những bài viết của các Giáo Phụ và các Tiến Sĩ Hội Thánh và kho tàng khôn ngoan tôn giáo của nhiều thời đại. Internet có một khả năng đáng kể để vượt qua khoảng cách và sự cô lập, giúp con người có thể tiếp xúc với những người thiện chí có cùng tư tưởng, những người gia nhập vào những cộng đoàn đức tin ảo (virtual communities of faith) để khích lệ và nâng đỡ lẫn nhau. Giáo Hội có thể thực thi một sự phục vụ quan trọng cho người Công Giáo cũng như không Công Giáo bằng sự lựa chọn và truyền đi những dữ liệu hữu ích qua phương tiện truyền thông này.
Internet có liên quan đến nhiều hoạt động và chương trình của Giáo Hội – phúc âm hóa, bao gồm cả tái phúc âm hóa và tân phúc âm hóa và những hoạt động truyền giáo truyền thống, giáo lý và các hình thức giáo dục khác, tin tức và thông tin, hộ giáo (apologetics), chăn dắt và quản trị, và các hình thức tư vấn mục vụ và khải đạo tâm linh. Mặc dù thực tại ảo (virtual reality) của không gian điện toán (cyberspace) không thể thay thế cho cộng đoàn giao tiếp cá nhân thực sự, cho sự hiện diện của Chúa trong các phép bí tích và trong phụng vụ, hay cho sự công bố tức khắc và trực tiếp Tin Mừng, nó vẫn có thể bổ sung, lôi kéo người ta đến một kinh nghiệm đầy đủ hơn của cuộc sống đức tin và làm phong phú đời sống đạo của những người dùng nó. Nó cũng đem đến cho Giáo Hội một phương tiện để truyền thông cho những nhóm cụ thể – những người trẻ và những người mới thành niên, những người già và những người bị bó gối trong nhà, những người sống ở các miền xa xôi, các thành viên của các thực thể tôn giáo khác – những người mà nếu không có Internet rất khó có thể tiếp cận.
Một con số ngày càng đông đảo những giáo xứ, những địa phận, những dòng tu và các cơ quan có liên hệ với Giáo Hội, các chương trình, và các tổ chức đủ loại đang tận dụng Internet cho những mục đích nêu trên và những mục đích khác nữa. Những đề án sáng tạo do Giáo Hội bảo trợ đang hiện diện tại nhiều nơi ở cấp quốc gia và khu vực. Tòa Thánh đã rất tích cực trong lãnh vực này và đang tiếp tục mở rộng và phát triển sự hiện diện của mình trên Internet. Các nhóm có liên quan với Giáo Hội mà chưa bước vào không gian điện toán được khuyến khích hãy xem xét khả năng thực hiện điều này trong thời gian ngắn. Chúng tôi mạnh mẽ khuyến khích sự trao đổi ý tưởng và thông tin về Internet giữa những ai có kinh nghiệm trong lãnh vực này với những người mới làm quen.
6. Giáo Hội cũng cần phải hiểu và dùng Internet như là một phương tiện truyền thông nội bộ. Ðiều này đòi hỏi chúng ta giữ một nhận thức rõ ràng về đặc tính của Internet như một phương tiện truyền thông trực tiếp, tức thời, giao tiếp (interactive) và dự phần (participatory). Sự giao tiếp hai chiều của Internet đang làm mờ đi sự phân biệt cổ điển giữa những người truyền thông và những người nhận được truyền thông,24 và tạo ra một tình trạng theo đó, mọi người, ít nhất là về triển vọng, có thể đóng cả hai vai trò. Ðây không phải là loại truyền thông một chiều, rót từ trên xuống như trong quá khứ. Khi ngày càng nhiều người trở nên quen thuộc với đặc điểm này của Internet trong các lãnh vực khác của đời sống, họ cũng có thể được mong đợi tìm kiếm điều này trong lãnh vực tôn giáo và Giáo Hội.
Kỹ thuật này là mới, nhưng ý tưởng thì không mới. Công Ðồng Vatican II nói rằng các thành viên của Giáo Hội cần giãi bày cho các mục tử của họ “những nhu cầu và ước muốn với sự tự do và tự tin thích hợp của con cái Chúa và anh em của Ðức Kitô”; thật vậy, theo hiểu biết, khả năng hay vị trí, người tín hữu không những có thể mà đôi khi có trách nhiệm phải phát biểu ý kiến về những vấn đề liên hệ đến lợi ích của Giáo Hội”.25 Communio et Progressio nhận xét rằng như một “thân thể sống động” Giáo Hội “cần ý kiến của công chúng để nuôi dưỡng việc cho và nhận giữa các thành viên”.26 Mặc dù những sự thật đức tin “không cho phép những diễn giải tùy tiện”, chỉ dẫn mục vụ này ghi nhận “một lãnh vực to lớn nơi các thành viên của Giáo Hội có thể bày tỏ quan điểm của họ”.27
Những ý tưởng tương tự như thế cũng được nêu ra trong Giáo Luật 28 cũng như trong các tài liệu gần đây của Hội Ðồng Giáo Hoàng Về Truyền Thông Xã Hội.29 Aetatis Novae gọi truyền thông hai chiều và ý kiến công chúng là “một trong những cách thế nhận thức một cách cụ thể tính cách của Giáo Hội như communio”30 Văn kiện Ðạo Ðức Trong Truyền Thông cho biết: “Một dòng chảy thông tin và quan điểm hai chiều giữa các mục tử và giáo dân, sự tự do phát biểu nhạy cảm với sự hưng thịnh của cộng đoàn và vai trò của Huấn Quyền trong việc nuôi dưỡng nó, và những ý kiến công chúng có trách nhiệm, tất cả là những biểu hiện quan trọng của ‘quyền căn bản về đối thoại và thông tin bên trong Giáo Hội’“31 Internet đem đến một phương tiện kỹ thuật hiệu quả để hiện thực hóa viễn kiến này.
Do đó, đây là một khí cụ có thể dùng một cách sáng tạo cho nhiều khía cạnh của quản trị và chăn dắt. Cùng với việc mở ra những kênh cho việc phát biểu ý kiến công khai, chúng ta có trong đầu những thứ này như là những chuyên viên về cố vấn, chuẩn bị cho những buổi hội họp, và thực hành sự hợp tác trong và giữa các giáo xứ, và các cơ quan tôn giáo trên phạm vi địa phương, quốc gia và quốc tế.
7. Giáo dục và huấn luyện là một lãnh vực khác nữa của cơ hội và nhu cầu. “Ngày nay mọi người đều cần một số dạng thức học tiếp về truyền thông xã hội qua việc tự học hay tham gia vào một chương trình có tổ chức hoặc cả hai. Không chỉ dạy về kỹ thuật, giáo dục truyền thông giúp con người hình thành những tiêu chuẩn về sở thích và sự phán đoán luân lý theo sự thật, một khía cạnh của sự hình thành lương tâm. Qua các trường học và các chương trình đào tạo, Giáo Hội nên cung cấp giáo dân truyền thông loại này”. 32
Giáo dục và đào tạo về Internet cần phải là một phần của những chương trình hoàn chỉnh về giáo dục truyền thông dành cho mọi thành phần của Giáo Hội. Hoạch định mục vụ dành cho truyền thông xã hội cần phải dành đến mức có thể được cho việc cung cấp sự huấn luyện này trong quy trình đào tạo chủng sinh, linh mục, tu sĩ và các giáo dân tham gia việc mục vụ, cũng như các thầy cô giáo, các bậc cha mẹ và học sinh.33
Các người trẻ đặc biệt cần được dạy “không phải chỉ để trở nên người Kitô hữu tốt khi họ là những người tiếp nhận truyền thông nhưng còn phải nên tích cực trong việc sử dụng tất cả các trợ giúp truyền thông nằm trong các phương tiện truyền thông đại chúng…Nhờ thế, những người trẻ sẽ là những công dân thực sự của thời đại truyền thông xã hội đã bắt đầu”34 – một thời đại trong đó truyền thông đại chúng được xem như “một phần của một nền văn hóa đang mở ra mà những hệ quả đầy đủ vẫn chưa được hiểu hoàn toàn”35 Giảng dạy về Internet và kỹ thuật mới do đó liên quan nhiều hơn là giảng dạy về mặt kỹ thuật; thanh niên cần học biết cách hành xử tốt trong không gian điện toán, đưa ra những phán đoán sắc bén theo những tiêu chuẩn luân lý lành mạnh về những gì họ thấy trong không gian này, và sử dụng kỹ thuật mới cho sự phát triển tổng thể và cho lợi ích của tha nhân.
8. Internet cũng đưa ra nhiều vấn nạn đặc biệt cho Giáo Hội, được bàn thảo đại cương trong văn kiện Ðạo Ðức và Internet, là văn kiện đi kèm với văn kiện này.36 Trong khi nhấn mạnh đến điều tích cực về Internet, điều quan trọng là cần phải rõ ràng về điều gì không tích cực.
Ở một mức rất sâu, “thế giới truyền thông có thể đôi khi thờ ơ hay ngay cả thù địch với đức tin và luân lý Kitô Giáo. Ðiều này một phần do bởi văn hóa truyền thông tiêm nhiễm quá đậm một ý tưởng tiêu biểu của thời hậu hiện đại theo đó sự thật duy nhất tuyệt đối là không có sự thật tuyệt đối hay, nếu có những sự thật như thế, thì chúng không thể tiếp cận với lý trí nhân loại và do đó là không có liên quan”37
Trong những vấn nạn đặc thù do Internet đưa ra phải kể đến sự có mặt của những trạm thông tin (site) thù địch dành riêng cho việc hạ nhục và tấn công các nhóm tôn giáo và sắc tộc. Một số trong những trạm thông tin này tấn công vào Giáo Hội Công Giáo. Cũng như hiện tượng tài liệu khiêu dâm và kích động bạo lực trong truyền thông xã hội, các trạm thông tin thù địch trên Internet là “những phản ảnh của mặt trái tối tăm của một bản tính nhân loại bị hủy hoại bởi tội lỗi”38 Và trong khi sự tôn trọng quyền tự do phát biểu có thể đòi hỏi khoan dung ngay cả với những tiếng nói hận thù đến một mức độ nào đó, sự tự điều chỉnh trong kỹ nghệ truyền thông và, nếu cần, sự can thiệp của nhà chức trách – cần được thiết lập và đề ra những giới hạn hợp lý cho những gì có thể được phát biểu.
Sự lan tràn của những trạm thông tin tự xưng là Công Giáo cũng tạo ra một vấn đề thuộc dạng khác. Như chúng ta đã nói, các nhóm liên hệ đến Giáo Hội nên hiện diện cách sáng tạo trên Internet; các cá nhân và các nhóm không chính thức có động cơ tốt và được thông tin đầy đủ, hoạt động theo sáng kiến của riêng họ cũng nên có mặt trên Internet. Nhưng quả là lúng túng, tối thiểu phải nói như thế, khi cần phân biệt giữa những diễn giải của những giáo lý chuyên biệt, những thực hành đạo đức cá nhân, những tranh luận về ý thức hệ mang nhãn hiệu Công Giáo với những lập trường chân thật của Giáo Hội. Chúng tôi đề nghị một giải pháp cho vấn nạn này trong phần dưới đây.
9. Những vấn đề nhất định khác cũng đòi hỏi nhiều suy tư. Khi xem xét những vấn đề này, chúng tôi khích lệ việc tìm kiếm và nghiên cứu tiếp tục, bao gồm cả “sự phát triển của một ngành nhân loại học và thần học về truyền thông”39, với quy chiếu đặc biệt đến Internet. Cùng với việc nghiên cứu và tìm kiếm, cố nhiên, việc hoạch định mục vụ tích cực cho việc dùng Internet có thể và cần phải xúc tiến.40
Một lãnh vực nghiên cứu liên quan đến đề xuất cho rằng những lựa chọn quá phong phú những sản phẩm tiêu thụ và những dịch vụ trên Internet có thể có một tác động lây lan trên phương diện tôn giáo và kích thích một giải pháp “tiêu dùng” cho những vấn đề thuộc đức tin. Những dữ liệu thống kê cho thấy một số người ghé thăm các trạm thông tin tôn giáo hành xử như đang đi mua sắm, lựa chọn những thành phần của những gói hàng tôn giáo được cắt xén theo sở thích. “Khuynh hướng về phía những người Công Giáo muốn chọn lọc trong sự trung thành” với các giáo huấn Giáo Hội là một vấn nạn đã được nhìn nhận trong những bối cảnh khác;41 nhiều thông tin liên quan đến vấn đề liệu rằng Internet có làm xấu thêm vấn nạn này không và đến mức độ nào là rất cần thiết.
Tương tự, như đã lưu ý ở trên, thực tại ảo của không gian điện toán có một số hệ quả gây ra lo lắng cho tôn giáo cũng như cho các lãnh vực khác của đời sống. Thực tại ảo không thể thay thế cho sự Hiện Diện Thật Sự của Ðức Kitô trong Thánh Thể, cho thực tại bí tích của các bí tích khác, và cho việc chia sẻ thờ phượng trong một cộng đoàn nhân loại máu thịt. Không có bí tích nào trên Internet cả; và cả những cảm nghiệm tôn giáo, có thể xảy ra ở đó nhờ hồng ân của Thiên Chúa, cũng không đủ để tách biệt khỏi sự giao tiếp trong thế giới thực với những anh chị em cùng đức tin. Ðây là một khía cạnh khác của Internet đòi hỏi nghiên cứu và suy tư. Ðồng thời, hoạch định mục vụ cần xem xét cách thế dẫn dắt con người từ không gian điện toán đến cộng đoàn đích thực và cách thế, qua giảng dạy và giáo lý, Internet có thể được dùng để nuôi dưỡng và làm phong phú họ trong cuộc sống Kitô Giáo.
III. NHỮNG ÐỀ NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
10. Những tín hữu, cũng như những thành phần ưu tư của một số đông hơn những khán giả của Internet, những người có những quan tâm hợp pháp nhất định của riêng họ, mong muốn dự phần vào tiến trình dẫn dắt sự hình thành tương lai của phương tiện truyền thông mới này. Cũng cần phải nói là điều này đôi khi đòi hỏi họ phải điều chỉnh lại cho thích ứng lề lối tư duy và thực hành của họ.
Một điều quan trọng nữa là mọi người ở mọi cấp của Giáo Hội cần dùng Internet cách sáng tạo để chu toàn bổn phận của họ và giúp Giáo Hội thực thi sứ mạng của mình. Lui lại một cách nhút nhát vì sợ kỹ thuật hay vì lý do khác là không thể chấp nhận, khi tính đến những khả năng rất tích cực của Internet. “Những phương pháp đem lại tiện nghi truyền thông và đối thoại giữa các thành phần của Giáo Hội có thể củng cố những mối dây hiệp nhất giữa họ. Việc tiếp cận tức khắc với thông tin giúp Giáo Hội có thể đào sâu thêm đối thoại với thế giới đương đại? Giáo Hội có thể sẵn sàng hơn để cho thế giới biết về niềm tin của mình và giải thích những lý do cho lập trường của mình về bất cứ vấn đề và biến cố nào. Giáo Hội có thể nghe rõ ràng hơn tiếng nói của ý kiến công chúng, và bước vào một cuộc tranh luận liên tục với thế giới quanh mình, và như thế dấn thân trực tiếp hơn trong nỗ lực tìm kiếm chung những giải pháp cho rất nhiều những vấn đề căng thẳng của nhân loại”.42
11. Do đó, để kết luận những suy tư này, chúng tôi đưa ra những lời khích lệ cho những nhóm đặc biệt – những nhà lãnh đạo Giáo Hội, các vị mục tử, các nhà giáo dục, các bậc cha mẹ và đặc biệt cho những người trẻ.
Với những nhà lãnh đạo Giáo Hội: Những đấng bậc trong cương vị lãnh đạo trong mọi lãnh vực của Giáo Hội cần hiểu biết về các phương tiện truyền thông đại chúng, áp dụng những hiểu biết này trong việc hình thành các kế hoạch mục vụ cho truyền thông xã hội43 cùng với những chính sách cụ thể và những chương trình trong lãnh vực này, và sử dụng thích hợp các phương tiện truyền thông. Khi cần thiết, chính các vị cũng nên học tập về truyền thông; thật ra, “Giáo Hội sẽ được phục vụ tốt hơn nếu có nhiều vị đang giữ các chức vụ và thi hành các chức năng nhân danh Giáo Hội nhận được những huấn luyện về truyền thông”.44
Ðiều này áp dụng cho Internet cũng như cho các phương tiện truyền thông cổ điển. Các nhà lãnh đạo Giáo Hội buộc phải dùng “hết các tiềm năng của thời đại điện toán để phục vụ con người và những ơn gọi cao trọng của mỗi người, và do đó làm vinh danh Chúa Cha, đấng xuất phát mọi điều thiện hảo”45 Họ phải sử dụng kỹ thuật nổi bật này trong nhiều khía cạnh của sứ vụ Giáo Hội, trong khi cũng tìm kiếm những cơ hội cho sự hợp tác đại kết và liên tôn trong việc sử dụng nó.
Một khía cạnh đặc biệt của Internet, như chúng ta đã thấy, liên quan đến sự lan tràn đôi khi rất dễ gây hoang mang của các trạm thông tin mang danh “Công Giáo”. Một hệ thống cầu chứng tự nguyện (voluntary certification) ở các cấp địa phương và quốc gia có thể có ích khi liên quan đến những tài liệu có tính chất tín lý hay giáo lý. Ý tưởng ở đây không phải là vấn đề kiểm duyệt nhưng là để cung cấp cho những người dùng Internet một chỉ dẫn khả tín về điều được cho là lập trường chân thực của Giáo Hội.
Với những mục tử: Linh mục, phó tế, tu sĩ và những giáo dân làm việc mục vụ cần phải được huấn luyện về truyền thông để tăng cường hiểu biết của họ về hệ quả của truyền thông xã hội đối với cá nhân và xã hội; và giúp họ đạt được một cách thế truyền thông làm rung động lòng người và gây thu hút nơi con người trong một nền văn hóa truyền thông. Ngày nay, điều này rõ ràng bao gồm việc huấn luyện về Internet, kể cả việc làm sao dùng nó trong công việc của họ. Họ cũng được lợi từ những trạm thông tin cung cấp cập nhật về thần học và các gợi ý mục vụ.
Với những nhân sự trong Giáo Hội trực tiếp liên quan đến truyền thông xã hội, điều chắc chắn khỏi cần phải nói là họ cần phải được đào tạo chuyên nghiệp. Nhưng họ cũng cần được đào tạo về tín lý và tâm linh, bởi vì “để làm chứng tá cho Ðức Kitô, cần thiết là chính ta phải gặp gỡ Ngài và nuôi dưỡng một mối liên hệ cá nhân với Ngài qua cầu nguyện, Thánh Thể và bí tích hòa giải, đọc và suy niệm Lời Chúa, học hỏi tín lý Kitô Giáo, và phục vụ tha nhân”.46
Với những nhà giáo dục và các giáo lý viên: Chỉ Thị Mục Vụ Communio et Progressio đã nói về “bổn phận cần kíp” của trường Công Giáo để huấn luyện những nhà truyền thông và những người tiếp nhận truyền thông xã hội trong mối liên hệ với những nguyên tắc của Kitô Giáo. 47 Thông điệp tương tự đã được lặp lại nhiều lần. Trong thời đại của Internet, với tầm vươn tới và hệ quả to lớn của nó, nhu cầu này còn cấp bách hơn bao giờ.
Các trường đại học, các học viện, các trường học, và các chương trình giáo dục ở mọi cấp phải cung cấp những khóa học cho những nhóm khác nhau – “các chủng sinh, các linh mục, các sư huynh và các nữ tu, các nhà lãnh đạo giáo dân ? Các thầy cô giáo, các bậc cha mẹ và học sinh”48 – cũng như khóa học cao hơn về kỹ thuật truyền thông, quản lý, đạo đức, và chính sách cho những cá nhân đang chuẩn bị cho công việc truyền thông xã hội chuyên nghiệp hay cho những vai trò đưa ra quyết định, bao gồm cả những người làm việc trong ngành truyền thông cho Giáo Hội. Xa hơn nữa, chúng tôi đưa ra những vấn đề và những khúc mắc nêu trên với những học giả và những nhà nghiên cứu thuộc những ngành có liên quan trong các cơ sở Công Giáo chuyên môn.
Với các bậc cha mẹ: Vì lợi ích của con cái họ, cũng như của chính họ, các bậc cha mẹ cần phải “học và thực hành những năng khiếu của những người xem, nghe và đọc một cách nhạy bén, hành xử như những mẫu gương về việc sử dụng thận trọng các phương tiện truyền thông xã hội tại gia”49 Về phương diện Internet, trẻ em và thanh niên thường tỏ ra quen thuộc hơn là cha mẹ chúng, nhưng cha mẹ vẫn phải hướng dẫn và giám sát con cái họ trong việc sử dụng Internet.50 Nếu điều này có nghĩa là họ phải học hỏi thêm về Internet, thì đó cũng là điều đáng làm.
Việc giám sát của cha mẹ phải bao gồm cả việc phải bảo đảm rằng kỹ thuật lọc (filtering technology) được dùng trong những máy điện toán dành cho con cái khi điều kiện tài chính và kỹ thuật cho phép, ngõ hầu bảo vệ con trẻ tối đa có thể được khỏi những tài liệu khiêu dâm, những kẻ săn tìm tính dục, và những đe dọa khác. Tiếp cận với Internet mà không có giám sát là điều không thể cho phép. Cha mẹ và con cái cần đối thoại với nhau về những điều đã thấy và đã kinh qua trong không gian điện toán; chia sẻ với những gia đình khác có cùng những giá trị và cùng những mối ưu tư sẽ rất là hữu ích. Bổn phận căn bản của cha mẹ ở đây là giúp con cái trở nên những người sử dụng biết phân định và có trách nhiệm, và không là những kẻ nghiện Internet đến nỗi lơ là những tiếp xúc với chúng bạn và cả với thiên nhiên.
Ðối với trẻ em và các bạn trẻ: Internet là cánh cửa mở ra một thế giới ồn ào náo nhiệt với ảnh hưởng định hình mạnh mẽ; nhưng không phải mọi thứ ở đàng sau cánh cửa là an toàn, lành mạnh và trung thực. “Việc đào tạo liên quan đến các phương tiện truyền thông xã hội cần được mở ra cho trẻ em và thanh niên nhằm chống lại con đường dễ dàng của sự tuân theo mà không biết phê phán, chống lại áp lực bạn bè và khai thác thương mại”51. Người trẻ có bổn phận với chính họ – và với cha mẹ, gia đình và bạn bè, các vị mục tử và thầy cô giáo, và trên hết là với Thiên Chúa – phải dùng Internet một cách lành mạnh.
Internet đặt trong tầm với của thanh niên ở vào tuổi rất sớm một khả năng bao la để làm điều tốt cũng như để gây hại, cho chính họ và cho người khác. Nó có thể làm phong phú đời sống họ vượt xa những mơ ước của các thế hệ đi trước và đến lượt lại cho họ khả năng để làm phong phú đời sống của những người khác. Internet cũng có thể nhận chìm họ trong chủ nghĩa tiêu thụ, hoang tưởng dâm đãng và bạo lực, và cô lập về tâm lý.
Thanh niên, như thường được đề cập đến, là tương lai của xã hội và Giáo Hội. Việc sử dụng lành mạnh Internet có thể giúp chuẩn bị cho họ gánh vác trách nhiệm với xã hội và Giáo Hội. Nhưng điều này không tự động xảy đến. Internet không chỉ đơn giản là một phương tiện truyền thông dành cho vui chơi giải trí và mua sắm. Nó là dụng cụ để hoàn thành công việc hữu ích, và thanh niên phải học để xem và dùng nó như thế. Trong không gian điện toán, tối thiểu giống như ở những hoàn cảnh khác, họ có thể được kêu gọi để đi ngược lại với trào lưu, chống lại xu hướng văn hóa, ngay cả chịu bắt bớ vì lẽ công chính.
12. Ðối với những người thiện chí: Cuối cùng, chúng tôi đề nghị một số đức tính cần rèn luyện với những ai muốn dùng tốt Internet; việc thực hành các đức tính này cần phải dựa trên và hướng dẫn bởi một sự đánh giá thực tiễn nội dung.
Sự thận trọng là cần thiết để thấy rõ những hệ quả – tiềm năng dẫn đến sự thiện và sự dữ – trong phương tiện truyền thông này và để đáp trả cách sáng tạo với những cơ hội và thách đố của nó.
Công lý là cần thiết, đặc biệt công lý trong nỗ lực đóng lại khoảng cách điện số (digital divide) – khoảng cách giữa kẻ giàu thông tin và kẻ nghèo thông tin trong thế giới ngày nay.52 Ðiều này đòi hỏi một cam kết cho lợi ích chung của quốc tế không thua gì “sự toàn cầu hóa tình liên đới”53
Dũng cảm là cần thiết. Ðiều này có nghĩa là đứng dậy cho sự thật khi đối diện với chủ nghĩa tương đối hóa tôn giáo và luân lý, đứng dậy cho sự xả kỷ và quảng đại khi đối diện với chủ nghĩa tiêu dùng cá nhân, đứng dậy cho sự đứng đắn khi đối diện với dâm dục và tội lỗi.
Và tự chế là cần thiết – một giải pháp kỷ luật tự giác cho khí cụ kỹ thuật phi thường này, Internet, cũng như việc dùng nó khôn ngoan và chỉ dùng cho điều thiện.
Khi suy niệm về Internet, cũng như về tất cả các phương tiện truyền thông xã hội khác, chúng tôi nhắc nhớ rằng Ðức Kitô là “nhà truyền thông hoàn hảo” 54 – chuẩn mực và mẫu gương cho bước tiến truyền thông của Giáo Hội – cũng như là nội dung mà Giáo Hội có bổn phận phải truyền thông. “Xin cho những người Công Giáo liên quan đến thế giới truyền thông rao giảng sự thật về Ðức Giêsu mạnh dạn hơn bao giờ từ trên những mái nhà, sao cho mọi người nam nữ có thể nghe về tình yêu là tâm điểm của chính truyền thông Thiên Chúa nơi Ðức Giêsu Kitô, hôm qua, cũng như hôm nay và mãi mãi” 55
Vatican, Tháng 2 Ngày 22, Năm 2002
Lễ kính Ngai Tòa Thánh Phêrô Tông Ðồ.
+ John P. Foley, Chủ tịch
+ Pierfranco Pastore, Thư ký
1) John Paul II, encyclical letter Laborem Exercens, n. 25; cf. Vatican Council II, Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, n. 34.
(2) Vatican Council II, Decree on the Means of Social Communication Inter Mirifica, n. 1.
(3) For example, Inter Mirifica; the Messages of Pope Paul VI and Pope John Paul II on the occasion of the World Communication Days; Pontifical Council for Social Communications, Pastoral Instruction Communio et Progressio, Pornography and Violence in the Communications Media: A Pastoral Response, Pastoral Instruction Aetatis Novae, Ethics in Advertising, Ethics in Communications.
(4) Pornography and Violence in the Communications Media, n. 30.
(5) Communio et Progressio, n. 2.
(6) John Paul II, Message for the 34th World Communications Day, June 4, 2000.
(7) Communio et Progressio, n. 10.
(8) Vatican Council II, Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, 39.
(9) Inter Mirifica, 2.
(10) Pontifical Council for Social Communications, Ethics in Internet.
(11) Aetatis Novae, 8.
(12) Ibid.
(13) Ethics in Communications, n. 3.
(14) Cf. Vatican Council II, Dogmatic Constitution on Divine Revelation Dei Verbum, n. 10.
(15) Aetatis Novae, n. 10.
(16) Ethics in Communications, n. 26.
(17) Communio et Progressio, 128.
(18) Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi, n. 45.
(19) Encyclical Redemptoris Missio, n. 37.
(20) Aetatis Novae, n. 2.
(21) John Paul II, Message for the 35th World Communications Day, n. 3, May 27, 2001.
(22) Aetatis Novae, n. 9.
(23) Ethics in Communications, n. 11.
(24) Cf. Communio et Progressio, n. 15.
(25) Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, n. 37.
(26) Communio et Progressio, n. 116.
(27) Ibid., n. 117.
(28) Cf. Canon 212.2, 212.3.
(29) Cf. Aetatis Novae, n. 10; Ethics in Communications, n. 26.
(30) Aetatis Novae, n. 10.
(31) Ethics in Communications, n. 26.
(32) Ethics in Communications, n. 25.
(33) Aetatis Novae, n. 28.
(34) Communio et Progressio, n. 107.
(35) John Paul II, Message for the 24th World Communications Day, 1990.
(36) Cf. Ethics in Internet.
(37) John Paul II, Message for the 35th World Communications Day n3.
(38) Pornography and Violence in the Communications Media, n. 7.
(39) Aetatis Novae, 8.
(40) Cf. John Paul II, Apostolic Letter Novo Millennio Ineunte, n. 39.
(41) Cf. John Paul II, Address to the Bishops of the United States, n. 5, Los Angeles, September 16, 1987.
(42) John Paul II, Message for the 24th World Communications Day, 1990.
(43) Cf. Aetatis Novae, nn. 23-33.
(44) Ethics in Communications, n. 26.
(45) Message for the 24th World Communications Day.
(46) Message for the 34th World Communications Day, 2000.
(47) Communio et Progressio, n. 107.
(48) Aetatis Novae, n. 28.
(49) Ethics in Communications, n. 25.
(50) Cf. John Paul II, Post-Synodal Apostolic Exhortation Familiaris Consortio, n. 76.
(51) Ethics in Communications, n. 25.
(52) Cf. Ethics in Internet, nn. 10, 17.
(53) John Paul II, Address to the UN Secretary General and to the Administrative Committee on Coordination of the United Nations, n. 2, April 7, 2000.
(54) Communio et Progressio, n. 11.
(55) Message for the 35th World Communications Day.¬¬¬¬¬¬
TÔNG THƯ CỦA ĐỨC THÁNH CHA
GỞI GIỚI HỮU TRÁCH TRUYỀN THÔNG:
SỰ PHÁT TRIỂN NHANH CHÓNG
1. Sự phát triển kỹ thuật nhanh chóng trong lãnh vực truyền thông chắc chắn là một dấu chỉ cho sự tiến bộ trong xã hội chúng ta ngày nay. Khi nhìn những phát minh này trong sự tiến hóa liên tục, những lời lẽ tìm thấy trong Sắc Lệnh của Công Đồng Chung Vatican II “Inter Mirifica” (Giữa Những Điều Kỳ Diệu), đã được vị tiền nhiệm của tôi, vị tôi tớ Chúa Phaolô Đệ Lục, công bố ngày 4/12/1963, xem ra càng thích hợp hơn: “Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, tài năng con người, đặc biệt là trong thời đại chúng ta, đã đưa ra những sáng tạo kỹ thuật diệu kỳ. Giáo Hội, mẹ chúng ta, đặc biệt lưu tâm đến những phát minh trực tiếp động đến tinh thần con người cũng như những gì mở ra những đại lộ mới cho việc truyền thông dễ dàng tin tức, ý tưởng và các định hướng”[1].
I. Tiến bộ phong phú sau Sắc Lệnh “Inter Mirifica”
2. Sau hơn bốn mươi năm công bố văn kiện này, có lẽ thật thích hợp để suy tư về những “thách đố” mà các phương tiện truyền thông đặt ra đối với Giáo Hội, một Giáo Hội mà như Đức Phaolô Đệ Lục đã nói “sẽ có lỗi trước mặt Chúa nếu không tận dụng các phương tiện mạnh mẽ này”[2]. Thật vậy, Giáo Hội không chỉ được mời gọi để sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng hầu truyền bá Tin Mừng, nhưng hơn bao giờ hết, còn phải hội nhập thông điệp cứu độ này vào trong “nền văn hóa mới” do những phương tiện truyền thông mạnh mẽ này tạo ra và khuếch trương lên. Giáo Hội dạy chúng ta rằng việc sử dụng những kỹ thuật và công nghệ truyền thông đương đại là một phần tích hợp trong sứ mạng của Giáo Hội trong ngàn năm thứ ba.
Với nhận thức này, cộng đoàn Kitô hữu đã chọn những bước tiến đáng kể trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông cho thông tin tôn giáo, cho việc rao giảng Tin Mừng và dạy giáo lý, cho việc đào tạo các mục tử trong địa hạt này, và cho việc giáo dục một trách nhiệm trưởng thành nơi những người sử dụng và những người tiếp nhận các phương tiện truyền thông đa dạng.
3. Công việc tân phúc âm hóa đối diện với nhiều thách đố trong một thế giới dồi dào các tiềm năng truyền thông. Vì thế, tôi đã muốn nhấn mạnh trong thông điệp “Redemptoris Missio” (Sứ Vụ Đấng Cứu Thế) rằng đồi Arê 1 đầu tiên của các thời đại tân tiến là thế giới của truyền thông với khả năng thống nhất nhân loại và chuyển hóa nhân loại thành “một làng toàn cầu”, theo cách nói thường được dùng. Các phương tiện truyền thông đã đạt đến một tầm quan trọng đến độ trở thành phương tiện chủ yếu để hướng dẫn và kích thích các hành vi cá nhân, gia đình và xã hội của nhiều người. Chúng ta đang đối diện với một vấn đề phức tạp, vì chính nền văn hóa, không kể nội dung của nó, nảy sinh từ chính sự tồn tại của các phương thế truyền thông mới với những kỹ thuật và từ vựng cho đến nay vẫn chưa biết được.
Thời đại của chúng ta là một thời đại của truyền thông toàn cầu trong đó biết bao thời giờ con người dành ra hay ít nhất là phải đối diện với các tiến trình khác nhau của truyền thông đại chúng. Tôi giới hạn chỉ đề cập đến sự hình thành nhân cách và lương tâm, sự diễn dịch và tổ chức các quan hệ tình cảm, sự nhịp nhàng của các giai đoạn giáo dục và đào tạo, sự mở rộng và khuếch tán các hiện tượng văn hóa, và sự phát triển của đời sống xã hội, chính trị và kinh tế.
Các phương tiện truyền thông đại chúng có thể và phải đề cao công lý và tình liên đới trong viễn kiến chân thật và đúng đắn về sự phát triển con người bằng cách tường thuật chính xác và trung thực, phân tích toàn bộ các tình huống và vấn đề, và đưa ra một diễn đàn cho các ý kiến khác nhau. Một phương thế đúng đắn về luân lý trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng đầy uy lực phải được đặt trong bối cảnh của việc thực hành trưởng thành quyền tự do và trách nhiệm, được xây dựng trên nền tảng tối cao là sự thật và công lý.
II. Suy tư Tin Mừng và Dấn Thân Truyền Giáo
4. Thế giới truyền thông đại chúng cũng cần đến ơn cứu độ của Chúa Kitô. Để phân tích với con mắt đức tin những tiến trình và giá trị truyền thông, nhận thức sâu hơn về Thánh Kinh chắc chắn có thể trợ giúp như một “quy tắc cao cả” cho việc truyền thông một sứ điệp không chóng qua, nhưng thật căn bản vì giá trị của thông điệp này.
Lịch sử ơn Cứu Độ tường thuật và ghi lại truyền thông của Thiên Chúa với loài người, một sự truyền thông sử dụng tất cả mọi hình thức và cách thế thông đạt. Con người được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa để mặc lấy mạc khải thánh thiện và để bước vào một cuộc đối thoại thân tình với Ngài. Vì tội lỗi, khả năng đối thoại này đã bị đổi thay ở cả cấp độ cá nhân lẫn xã hội, và nhân loại phải chịu đau khổ, và sẽ còn tiếp tục chịu khổ đau, đó là kinh nghiệm cay đắng cho sự vô tri và ly khai. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ rơi con người, nhưng ban chính Con Ngài (x. Mc 12:1-11) cho thế gian. Trong Ngôi Lời đã hóa Thành nhục thể, truyền thông tự nó mang lấy một ý nghĩa cứu độ sâu sắc: chính vì thế, trong Thánh Thần, nhân loại được trao ban khả năng để nhận lãnh ơn cứu độ, để công bố và làm chứng cho ơn cứu độ trước thế giới.
5. Truyền thông giữa Thiên Chúa và nhân loại vì thế đạt đến sự viên mãn nơi Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể. Hành vi yêu thương qua đó Thiên Chúa mạc khải chính mình cho nhân loại, kết hiệp với lời đáp trả là đức tin của nhân loại, tạo nên một cuộc đối thoại đầy ơn ích. Chính vì lý do này, khi chúng ta đưa ra theo một nghĩa nào đó lời thỉnh cầu của các môn đệ “Lậy Thầy, xin dạy bảo chúng con”, chúng ta có thể xin Chúa giúp chúng ta hiểu được cách thế truyền thông với Thiên Chúa và với người khác qua các phương tiện truyền thông đại chúng diệu kỳ. Trong ánh sáng của loại truyền thông quả quyết và rõ ràng như thế, các phương tiện truyền thông cung cấp một cơ may đến với con người ở mọi nơi, vượt qua mọi chướng ngại của thời gian, không gian và ngôn ngữ; trình bày nội dung đức tin trong những cách thế đa dạng nhất có thể nghĩ ra được; và đem đến cho tất cả những ai tìm kiếm khả năng tiến vào cuộc đối thoại với mầu nhiệm của Thiên Chúa, Đấng được mạc khải trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô.
Ngôi Lời Nhập Thể đã để lại cho chúng ta một thí dụ về cách thế truyền thông với Chúa Cha và với nhân loại, trong những lúc yên lặng và tĩnh tâm, cũng như khi rao giảng mọi nơi mọi chốn trong mọi cách thế. Ngài giải thích Thánh Kinh, tỏ mình ra qua các dụ ngôn, qua các cuộc trò chuyện ấm cúng dưới mái gia đình, qua các lời dạy bảo nơi quảng trường, trên hè phố, trên bờ hồ và trên đỉnh núi. Gặp gỡ cá nhân với Ngài không để lại trong ta sự thờ ơ nhưng kích thích lời đáp trả: Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (Mt 10:27).
Tuy nhiên, có một lúc tột đỉnh mà việc truyền thông này trở nên sự hiệp nhất hoàn toàn: đó là cuộc gặp gỡ Thánh Thể. Qua việc nhận ra Đức Giêsu nơi “cử chỉ bẻ bánh” (x Lc 24:30-31), các tín hữu tự thấy mình bị thúc giục phải công bố cái chết và sự phục sinh của Ngài, và trở nên chứng nhân vui mừng và can đảm cho Vương Quốc của Ngài (x. Lc 24:35).
6. Nhờ ơn Cứu Chuộc, khả năng truyền thông của các tín hữu được chữa lành và canh tân. Gặp gỡ với Đức Kitô biến họ thành những tạo vật mới và cho phép họ trở nên một phần của dân tộc, mà khi chết trên Thánh Giá, Ngài đã giành được nhờ máu của Ngài; và đưa họ vào cuộc sống thân mật của Ba Ngôi Thiên Chúa, một sự truyền thông liên tục xoay tròn về sự hoàn thiện và tình yêu vô hạn giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Truyền thông thấm nhiễm vào các chiều kích của Giáo Hội, một Giáo Hội được mời gọi để công bố cho tất cả mọi người sứ điệp vui mừng của ơn cứu độ. Vì lý do này, Giáo Hội sử dụng các cơ hội do truyền thông đại chúng đem đến như những cách thế được trao ban theo sự quan phòng của Thiên Chúa hầu tăng cường hiệp nhất và để việc công bố Lời Ngài được rộng rãi hơn.[3] Các phương tiện truyền thông cho phép biểu tỏ tính chất hoàn vũ của Dân Chúa, giúp cho việc trao đổi giữa các Giáo Hội địa phương mạnh mẽ và tức thời hơn, nuôi dưỡng nhận thức chung và sự hợp tác với nhau.
Chúng ta cám tạ Chúa vì sự hiện diện của những phương tiện truyền thông mạnh mẽ, mà nếu được sử dụng bởi các tín hữu có đức tin chân thật trong sự tuân phục ánh sáng của Thánh Thần, sẽ tạo điều kiện cho sự truyền thông của Tin Mừng và làm cho các mối giây hiệp nhất giữa các cộng đoàn Giáo Hội trở nên hiệu quả hơn.
III. Một Thay Đổi Não Trạng và Canh Tân Mục Vụ
7. Giáo Hội tìm thấy nơi các phương tiện truyền thông một sự trợ giúp quý báu cho việc truyền bá Tin Mừng và các giá trị tôn giáo, cho việc cổ võ đối thoại, sự hợp tác đại kết và liên tôn, và cho cả sự bảo vệ những nguyên tắc cứng rắn thiết yếu cho việc kiến tạo một xã hội tôn trọng phẩm giá con người và chú ý đến thiện ích chung. Giáo Hội sẵn lòng sử dụng những phương tiện truyền thông này để đưa ra những thông tin về chính mình và mở rộng các biên giới truyền giáo, giáo lý và đào tạo, trong khi xem việc sử dụng chúng như một lời đáp trả cho lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16:15).
Đây chắc chắn không phải là một sứ vụ dễ dàng trong một thời đại như thời đại chúng ta hiện nay, trong đó tồn tại xác tín cho rằng thời của những điều chắc chắn đã chìm sâu trong quá khứ. Thật vậy, nhiều người tin rằng nhân loại phải học cách sống trong bầu khí thống trị bởi sự vô nghĩa, bởi sự tạm bợ và chóng qua.[4] Trong bối cảnh đó, các phương tiện truyền thông có thể được dùng “để công bố Tin Mừng hay bắt Tin Mừng phải câm nín trong lòng người”[5]. Điều này đặt ra một thách đố nghiêm trọng với các tín hữu, đặc biệt các bậc cha mẹ, các gia đình và tất cả những ai có trách nhiệm trong việc đào tạo trẻ em và người trẻ. Những cá nhân trong Giáo Hội có năng khiếu đặc biệt để hoạt động trong ngành truyền thông cần phải được khích lệ với sự cẩn trọng và khôn ngoan mục vụ, sao cho họ có thể trở thành những nhà chuyên nghiệp có thể đối thoại với thế giới bao la của các phương tiện truyền thông đại chúng.
8. Thông hiểu về các phương tiện truyền thông không chỉ giới hạn trong phạm vi những người có khiếu về lãnh vực này, nhưng phải bao gồm toàn thể cộng đoàn Giáo Hội. Như đã nêu ở trên, Kitô hữu cần chú ý đến nền văn hóa truyền thông họ đang sống để có thể diễn đạt các khía cạnh khác nhau của đức tin: từ Phụng Vụ, là hình thái diễn đạt hoàn bị và căn bản nhất về truyền thông với Thiên Chúa và với tha nhân, đến Giáo Lý, là điều luôn hướng đến con người đắm chìm trong ngôn ngữ và văn hóa thời nay.
Hiện tượng truyền thông hiện nay thúc đẩy Giáo Hội thực hiện một sự tái duyệt mục vụ và văn hóa, để có thể thích ứng được với thời đại của chúng ta. Hơn ai hết, các mục tử phải gánh lấy trách nhiệm này. Mọi điều khả thi đều phải được đưa ra thực hiện để Tin Mừng có thể thấm nhiễm vào xã hội, kích thích con người lắng nghe và chấp nhận thông điệp của Tin Mừng.[6] Về điểm này, những người được thánh hiến thuộc các cơ cấu chuyên sử dụng các phương tiện truyền thông có một trách nhiệm đặc biệt. Được đào tạo về linh đạo và chuyên môn cho mục đích này, những cơ cấu này, “phải sẵn sàng đưa ra những trợ giúp, bất cứ khi nào thích hợp về phương diện mục vụ […] để bù đắp cho việc sử dụng không thích hợp các phương tiện truyền thông; nâng cao phẩm chất các chương trình này; đề cao những nội dung tôn trọng luật luân lý, phong phú về nhân bản; và cổ võ các giá trị Kitô Giáo”[7].
9. Các phương tiện truyền thông quan trọng đến độ mười lăm năm trước đây tôi đã nhận định thật là không may khi phó thác hoàn toàn việc sử dụng chúng cho những sáng kiến của các cá nhân hay những nhóm nhỏ, và đề nghị rằng các phương tiện truyền thông phải được dứt khoát đưa vào các chương trình mục vụ.[8] Cách riêng, các kỹ thuật mới đang tạo ra nhiều cơ hội cho truyền thông cần phải phục vụ cho việc quản trị mục vụ và tổ chức các hoạt động khác nhau của cộng đoàn Kitô Giáo. Một thí dụ điển hình ngày nay là Internet không chỉ đưa ra các tài nguyên để thông tin phong phú hơn nhưng còn thay đổi cách thế con người tương tác với truyền thông.[9] Nhiều Kitô hữu đang sử dụng khí cụ này cách sáng tạo, tìm hiểu các tiềm năng của nó để trợ giúp các nghĩa vụ truyền giáo và giáo dục, cũng như truyền thông nội bộ, quản trị và chăn dắt. Tuy nhiên, bên cạnh Internet, các phương tiện truyền thông mới khác, cũng như các phương tiện truyền thông truyền thống, cần phải được dùng đến. Các nhật báo và tuần báo, các ấn phẩm đủ loại, và các chương trình truyền hình và truyền thanh Công Giáo vẫn còn là những phương tiện hữu dụng trong nhãn giới hoàn chỉnh về truyền thông Giáo Hội.
Trong khi nội dung truyền thông hiển nhiên là phải được thay đổi cho phù hợp với nhu cầu của các nhóm khác nhau, mục tiêu luôn luôn phải là làm cho quần chúng nhận thức về các chiều kích đạo đức và luân lý của thông tin.[10] Cũng vậy, điều quan trọng là cần phải bảo đảm sao cho những nhà chuyên môn về truyền thông nhận được sự đào tạo và sự chú ý mục vụ cần thiết để họ có thể đương đầu với những căng thẳng đặc biệt và những tình huống luân lý nan giải nảy sinh trong công việc hàng ngày. Rất thường là những người nam nữ này “thành tâm muốn biết và thực thi điều gì là chính đáng về luân lý và đạo đức” và trông mong sự hướng dẫn và nâng đỡ của Giáo Hội.[11]
IV. Truyền Thông Đại Chúng, Những Ngã Tư của Các Đại Vấn Nạn Xã Hội
10. Giáo Hội, dưới ánh sáng của ơn cứu độ được Chúa trao phó, cũng là thầy dạy của nhân loại, nhận thức nghĩa vụ của mình đóng góp cho một sự hiểu biết tốt hơn về những dự phóng và những trách nhiệm liên quan đến những phát triển hiện nay trong ngành truyền thông. Đặc biệt vì chúng ảnh hưởng đến lương tâm của các cá nhân, hình thành não trạng, và quyết định quan điểm trước các sự việc, thật quan trọng để nhấn mạnh một cách mạnh mẽ và rõ ràng rằng truyền thông đại chúng là một gia sản cần phải được bảo vệ và đề cao. Truyền thông đại chúng cần được đặt trong khuôn khổ đã được hình thành ban đầu về những quyền hạn và nghĩa vụ, dù theo quan điểm về trách nhiệm đào tạo và luân lý, hay bởi ràng buộc về luật pháp và các luật lệ.
Phát triển tích cực của truyền thông nhằm phục vụ thiện ích chung là trách nhiệm của mỗi một người.[12] Vì những liên hệ gần gũi của truyền thông với kinh tế, chính trị và văn hóa, cần phải có một hệ thống quản lý có thể bảo vệ vị trí trung tâm và phẩm giá của con người, địa vị cao trọng của gia đình như một đơn vị căn bản của xã hội và quan hệ chính đáng giữa các thành viên trong gia đình.
11. Chúng ta đối diện với ba vấn đề căn bản: cơ chế, dự phần và đối thoại.
Trước hết, rất nhiều việc liên quan đến cơ chế là cần thiết để bảo đảm rằng truyền thông đại chúng được hiểu rõ và được sử dụng cách thông minh và thích hợp. Những từ vựng mới do các phương tiện truyền thông đưa vào xã hội thay đổi cả các tiến trình học hỏi lẫn phẩm chất của các mối quan hệ giữa con người với nhau, đến nỗi nếu không có một cơ chế thích hợp, các phương tiện truyền thông đại chúng này đi đến chỗ lèo lái và uốn nắn mạnh mẽ con người hơn là phục vụ họ. Điều này đặc biệt đúng nơi những người trẻ, là lứa tuổi có khuynh hướng tự nhiên hướng về các sáng tạo kỹ thuật, và do đó cần sự giáo dục tốt hơn về việc sử dụng có trách nhiệm và thiết yếu các phương tiện truyền thông.
Điều thứ hai, tôi muốn kêu gọi sự lưu tâm của chúng ta đối với vấn đề thủ đắc các phương tiện truyền thông và sự dự phần đồng trách nhiệm trong việc quản lý các phương tiện này. Nếu các phương tiện truyền thông đại chúng là thiện ích cho tất cả mọi người, thì hơn bao giờ một cách thế mới phải được tìm ra – bao gồm cả việc phải dùng đến các biện pháp về luật pháp thích hợp – để hiện thực hóa việc dự phần thực sự của tất cả mọi người trong việc quản lý chúng. Một nền văn hóa đồng trách nhiệm cần phải được nuôi dưỡng.
Cuối cùng, không thể quên những khả năng to lớn của các phương tiện truyền thông đại chúng trong việc cổ võ đối thoại, trong việc trở nên phương tiện cho sự hiểu biết lẫn nhau, tình liên đới và hòa bình. Các phương tiện truyền thông là một tài nguyên mạnh mẽ cho thiện ích nếu được dùng để nuôi dưỡng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc; chúng cũng có thể là “những vũ khí” hủy diệt nếu được dùng để gieo rắc bất công và xung khắc. Vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Chân Phước Gioan XXIII, đã cảnh cáo cách tiên tri về những hiểm họa này trong tông thư “Pacem in Terris.” (Hòa Bình Tại Thế).[13]
12. Suy tư về vai trò “của công luận trong Giáo Hội” và “của Giáo Hội trước công luận” nảy sinh nhiều điều đáng quan tâm. Trong một cuộc gặp gỡ với các chủ bút các ấn bản Công Giáo, vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Đức Piô XII, khẳng định rằng đời sống của Giáo Hội sẽ thiếu đi điều gì đó nếu Giáo Hội không cho một ai có ý kiến. Ý tưởng tương tự cũng đã được lặp lại trong nhiều dịp khác[14], và trong Giáo Luật cũng công nhận quyền phát biểu ý kiến cá nhân trong một số điều kiện nhất định.[15] Trong khi đúng là các sự thật đức tin không thể để ngỏ cho bất cứ những diễn dịch tùy tiện nào, và sự tôn trọng những quyền của người khác đặt ra những giới hạn nội tại trên sự diễn đạt các phán đoán của ta, thật sự vẫn có chỗ trong giới Công Giáo cho việc trao đổi các ý kiến trong một cuộc đối thoại tôn trọng công lý và sự cẩn trọng.
Truyền thông cả trong nội bộ cộng đoàn Giáo Hội, lẫn giữa Giáo Hội và thế giới nói chung, đòi hỏi một sự cởi mở và một bước tiến mới trước các vấn đề đang phải đối diện liên quan đến thế giới truyền thông. Việc truyền thông này cần hướng đến một cuộc đối thoại xây dựng để cổ võ cho một công luận được thông tin đúng đắn và sáng suốt trong nội bộ cộng đoàn Kitô hữu. Giáo Hội, cũng như các cơ cấu và các tập thể khác, có nhu cầu và có quyền quảng bá các hoạt động của mình. Tuy nhiên, khi cần thiết, Giáo Hội phải bảo đảm một sự riêng tư thích hợp, mà không làm ảnh hưởng đến việc truyền thông đúng thời điểm và cần thiết về các biến cố của Giáo Hội. Đây là một trong các lãnh vực trong đó sự hợp tác giữa giáo dân và các Mục Tử thật cần thiết, như Công Đồng đã nhấn mạnh cách thích đáng: “Giáo Hội trông chờ nhiều điều lớn lao kỳ diệu nảy sinh từ cuộc đối thoại quen thuộc này giữa giáo dân và nhà lãnh đạo tinh thần của họ: mong đợi nơi giáo dân một ý tưởng được củng cố về trách nhiệm cá nhân; một lòng nhiệt thành được canh tân; một sự sẵn sàng áp dụng tài năng của họ vào các đề án của các vị lãnh đạo tinh thần. Mặt khác, Giáo Hội chờ mong nơi các nhà lãnh đạo tinh thần, với sự trợ giúp kinh nghiệm của giáo dân, có thể đi đến những quyết định rõ ràng hơn và khôn ngoan hơn liên quan đến cả các vấn đề thiêng liêng lẫn thế tục. Bằng cách này, toàn thể Giáo Hội, được củng cố bởi mỗi một thành viên của mình, có thể hoàn thành hiệu quả hơn sứ vụ của mình cho cuộc sống của thế giới”[16].
V. Để truyền thông với Quyền Năng của Thánh Thần
13. Thách đố lớn nhất của thời đại chúng ta đối với các tín hữu và tất cả những người thiện chí là làm sao duy trì được sự truyền thông trung thực và tự do để giúp củng cố tiến bộ toàn diện trên thế giới. Mọi người cần biết cách nuôi dưỡng một nhận thức tinh tế và một sự cảnh giác thường xuyên, trong khi phát triển một khả năng quan yếu lành mạnh liên quan đến sức mạnh thuyết phục của các phương tiện truyền thông đại chúng.
Cũng trong lãnh vực này, những tín hữu tin vào Đức Kitô biết rằng họ có thể trông cậy nơi sự phù trợ của Thánh Thần. Sự phù trợ này cần thiết hơn tất cả khi ta xét đến mức độ lớn lao mà những trở ngại nội tại đối với truyền thông có thể bị nhân rộng ra bởi các chủ nghĩa, bởi lòng tham muốn lợi lộc và quyền lực, và bởi những đố kỵ và mâu thuẫn giữa các cá nhân và các tập thể, cũng như sự yếu đuối của nhân loại và những rắc rối trong xã hội. Những kỹ thuật tiên tiến làm gia tăng đến mức đáng kể tốc độ, số lượng và khả năng thâm nhập của truyền thông, nhưng tất cả những thứ đó không tạo điều kiện dễ dàng hơn cho sự trao đổi tế nhị diễn ra giữa những trí óc, những tâm hồn, là tính chất đặc thù của loại truyền thông phục vụ cho tình liên đới và yêu thương.
Xuyên suốt lịch sử ơn cứu độ, Đức Kitô đã tự trình bày Ngài với chúng ta như là “nhà truyền thông” của Chúa Cha: “Thiên Chúa, trong những ngày sau hết này, đã nói với chúng ta qua Con Ngài” (Dt 1:2). Ngôi Lời hằng sống hóa thành nhục thể, trong khi truyền thông về chính Ngài, luôn luôn chứng tỏ sự tôn trọng đối với những ai lắng nghe, dạy bảo họ hiểu biết về tình trạng và những nhu cầu của mình, động lòng trắc ẩn trước những đau khổ họ phải chịu, mạnh mẽ dạy bảo họ chỉ những điều họ cần lắng nghe mà không áp đặt hay tương nhượng, lừa phỉnh hay lèo lái. Đức Giêsu dạy rằng truyền thông là một hành vi luân lý, “Người tốt thì rút cái tốt từ kho tàng tốt của mình; kẻ xấu thì rút cái xấu từ kho tàng xấu của mình. Tôi nói cho các người hay: đến Ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi điều vô ích mình đã nói. Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án; và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án.” (Mt 12:35-37)
14. Thánh tông đồ Phaolô có một thông điệp rõ ràng cho những ai dự phần trong truyền thông (các chính trị gia, những nhà truyền thông chuyên nghiệp, những khán giả), “Bởi thế, một khi đã cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự thật với người thân cận, vì chúng ta là phần thân thể của nhau…Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe.” (Ep 4:25,29).
Với những ai hoạt động trong ngành truyền thông, đặc biệt với những tín hữu đang dự phần trong lãnh vực quan trọng này của xã hội, tôi gởi đến anh chị em lời mời gọi, mà từ đầu sứ vụ Mục Tử Giáo Hội Hoàn Vũ, tôi đã muốn gởi đến toàn thế giới “Đừng sợ!”.
Đừng sợ những kỹ thuật mới! Chúng nằm “trong số những điều kỳ diệu” — “Inter Mirifica” — mà Thiên Chúa đặt để trong tay chúng ta để khám phá, sử dụng và công bố sự thật, cũng là sự thật về phẩm giá của chúng ta về vận mệnh của chúng ta như là con cái của Ngài, những người thừa tự Vương Quốc vĩnh cửu của Ngài. Đừng sợ bị thế gian chống đối! Đức Giêsu đã bảo đảm với chúng ta, “Thầy đã chiến thắng thế gian!” (Ga 16:33). Đừng sợ ngay cả với sự yếu đuối và bất toàn của chúng ta! Thầy Chí Thánh đã nói: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 18:20).
Hãy truyền thông sứ điệp của Đức Kitô về hy vọng, ơn sủng và tình yêu, trong khi giữ cho sống động, trong thế giới đang qua đi này, triển vọng vĩnh cửu của thiên đàng, một triển vọng mà không phương tiện truyền thông đại chúng nào có thể trực tiếp truyền thông, “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người.” (1 Cr 2:9).
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã ban cho chúng con Ngôi Lời hằng sống, Mẹ đã giữ những lời không lay chuyển của Ngài trong lòng, con xin phó dâng hành trình của Giáo Hội trong thế giới hôm nay cho Mẹ. Xin Đức Mẹ giúp chúng con truyền thông bằng mọi phương tiện vẻ đẹp và niềm vui của cuộc sống trong Đức Kitô, Đấng Cứu Độ chúng con.
Tôi ưu ái ban phép lành Tòa Thánh cho tất cả anh chị em!
Từ Vatican 24 Tháng Giêng Năm 2005
Lễ Thánh Phanxicô Đệ Salê, Bổn Mạng Các Ký Giả.
IOANNES PAULUS II
CHÚ THÍCH
[1] Số. 1.
[2] Tông huấn “Evangelii Nuntiandi” (Truyền Bá Tin Mừng Trong Thế Giới Mới) (8/12/1975): AAS 68 (1976), 45.
[3] X. Gioan Phaolô II, Tông Huấn “Christifideles Laici” (Ơn Gọi và Sứ Vụ Giáo Dân Trong Đời Sống Giáo Hội) (30 Tháng 12, 1988), 18-24: AAS 81 (1989), 421-435; X. HĐGH về TT Xã Hội, huấn thị mục vụ “Aetatis Novae” Feb. 22, 1992), 10: AAS 84 (1992), 454-455.
[4] X. Gioan Phaolô II, thông điệp “Fides et Ratio” (Đức Tin và Lý Trí) (14/9/1998), 91: AAS 91 (1999), 76-77.
[5] X. Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội, huấn thị mục vụ “Aetatis Novae” (22/2/1992), 4: AAS 84 (1992), 450.
[6] X. Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục “Pastores Gregis,” 30: L’Osservatore Romano, 17/10/2003, tr. 6.
[7] Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục “Vita Consecrata” (25/3/1996), 99: AAS 88 (1996), 476.
[8] X. Gioan Phaolô II, thông điệp “Redemptoris Missio” (Sứ Vụ của Đấng Cứu Thế) (7 Tháng 12, 1990), 37: AAS 83 (1991), 282-286.
[9] X. Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội, “Giáo Hội và Internet” (22/2/2002), 6: Thành Vatican, 2002, tr. 13-15.
[10] X. Sắc Lệnh “Inter Mirifica,” Công Đồng Chung Vatican II, 15-16; Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội, huấn thị mục vụ “Communio et Progressio” (23/5/1971), 107: AAS 63 (1971), 631-632; Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội, huấn thị mục vụ “Aetatis Novae” (22/2/1992), 18: AAS 84 (1992), 460.
[11] X. Ibid., 19: l.C.
[12] X. Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, Số 2494.
[13] X. Gioan Phaolô II, Thông Điệp Ngày Quốc Tế Truyền Thông lần thứ 37 (24/1/2003): L’Osservatore Romano, 25/1/2003, tr. 6.
[14] X. Công Đồng Chung Vatican II, “Lumen Gentium,” (Ánh Sáng Muôn Dân) (37; Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội, huấn thị mục vụ “Communio et Progressio” (May 23, 1971), 114-117: AAS 63 (1971), 634-635.
[15] Giáo Luật. 212, §3: Theo trình độ, khả năng và uy tín có được, họ có quyền và ngay cả đôi khi là bổn phận phải trình bày với các mục tử có chức thánh ý kiến của họ về những vấn đề có lợi cho Giáo Hội và công bố ý kiến của họ cho toàn thể các tín hữu, miễn là không xuyên tạc sự toàn vẹn của đức tin và luân lý, trong niềm tuân phục các vị mục tử của họ, và chú ý đến các thiện ích chung và phẩm giá của con người”.
[16] Công Đồng Chung Vatican II, “Lumen Gentium,” (Ánh Sáng Muôn Dân) 37.1. Đồi Arê (Areopagus) nơi người Hy Lạp tụ họp bàn chuyện chính sự – Chú thích của người dịch.
CÁC SỨ ÐIỆP TRUYỀN THÔNG THẾ GIỚI
CÁC SỨ ÐIỆP CỦA CÁC ÐỨC THÁNH CHA
NHÂN NGÀY TRUYỀN THÔNG THẾ GIỚI HÀNG NĂM
SỨ ÐIỆP CỦA ÐỨC THÁNH CHA
Năm 2000
NHÂN NGÀY TRUYỀN THÔNG THẾ GIỚI LẦN XXXIV
Chủ đề: “Công bố Ðức Kitô qua Truyền thông vào buổi Bình minh của Thiên niên kỷ mới”
Anh chị em thân mến,
Chủ đề Ngày Truyền Thông Thế Giới lần thứ 34, “Công bố Ðức Kitô qua Truyền thông vào buổi Bình minh của Thiên niên kỷ mới”, là một lời mời gọi nhìn về phía trước những thách đố mà chúng ta sẽ đương đầu, và cũng là một lời mời gọi nhìn lui lại buổi bình minh của Kitô giáo, để nhận được ánh sáng và sự can đảm cần thiết. Bản chất của sứ điệp mà chúng ta luôn loan báo chính là Ðức Giêsu: “Cả lịch sử nhân loại đều qui chiếu về Ngài: thời đại của chúng ta và tương lai của thế giới được tỏa sáng nhờ sự hiện diện của Ngài” (Tông sắc Mầu nhiệm Nhập Thể, 1).
Những chương đầu tiên trong Tông đồ Công vụ kể lại việc loan báo Ðức Kitô của các tông đồ – một sự loan báo bộc phát, tràn đầy niềm tin, mang tính thuyết phục, và được thực hiện nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Trước hết và quan trọng hơn hết, đó là các môn đệ rao truyền Ðức Kitô để đáp ứng lời truyền dạy Ngài giao cho họ. Trước khi về trời, Ngài đã nói với các Tông đồ: “Các con sẽ là nhân chứng của của Ta tại Giêrusalem, và trong toàn cõi Giuđêa và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8). Và cho dù họ là “những người vô học thức, và thuộc lê dân” (Cv 4:13), họ đã đáp ứng lời dạy của Ðức Kitô một cách mau chóng và độ lượng.
Cầu nguyện với Ðức Maria và những môn đệ khác của Chúa Giêsu, các Tông đồ dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, bắt đầu công cuộc loan truyền vào ngày Lễ Hiện Xuống (Cv 2). Khi đọc những biến cố kỳ diệu này, chúng ta được nhắc nhở về lịch sử của truyền thông như là một cuộc hành trình, đi từ dự án xây Tháp Babel do lòng kiêu ngạo thúc đẩy dẫn đến sự sụp đổ thành hỗn loạn và không hiểu biết lẫn nhau (Gen 11:1-9), cho đến Lễ Hiện Xuống và ơn nói tiếng lạ: một cuộc phục hồi truyền thông được đặt trọng tâm vào Ðức Giêsu, qua hành động của Chúa Thánh Thần. Vì thế, loan báo Ðức Kitô dẫn đến sự gặp gỡ giữa những người có đức tin và đức ái ở mức độ sâu xa nhất trong bản chất nhân loại; chính Ðức Kitô Phục Sinh trở thành môi trường truyền thông thực sự giữa những anh chị em trong Chúa Thánh Thần.
Lễ Hiện Xuống chỉ là khởi đầu. Ngay cả khi bị đe dọa trả thù, các Tông đồ không thối chí trong việc loan báo Chúa Giêsu: “Ðiều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi không thể không nói!” Thánh Phêrô và Thánh Gioan đã nói như thế với Hội đồng Cộng tọa (Cv 4:20). Thực vậy, chính những cuộc xét xử trở nên cách thế truyền giáo. Khi một cơn bách hại dữ dội cho Hội Thánh ở Giêrusalem theo sau cuộc tử đạo của Thánh Têphanô, buộc các môn đệ của Ðức Kitô phải dời đi, “Còn các người bị phân tán, thì đi qua đâu, họ đã giảng Lời Tin Mừng ở đó” (Cv 10:39-43).
Trọng tâm sống động của sứ điệp các Tông đồ rao giảng là cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu – sự sống chiến thắng khải hoàn tội lỗi và cái chết. Thánh Phêrô kể cho viên bách quản cơ binh Cornêliô và người nhà: “Họ đã treo Ngài trên súc gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa đã làm cho sống lại ngày thứ ba, và đã cho hiện tỏ. Và Ngài đã truyền dạy chúng tôi rao giảng cho dân và đoan chứng rằng chính Ngài là Ðấng Thiên Chúa đã đặt làm thẩm phán trên người sống và kẻ chết. Chính về Ngài, hết thảy các tiên tri đã chứng thực rằng ai tin vào Ngài thì được lãnh ơn tha tội nhờ Danh Ngài” (Cv 10:39-43).
Không cần phải nói, qua hai ngàn năm, hoàn cảnh đã thay đổi rất nhiều. Tuy nhiên, nhu cầu rao truyền Ðức Kitô vẫn thế. Nhiệm vụ làm chứng tá cho sự chết và sống lại của Ðức Kitô và sự hiện diện cứu độ của Ngài trong cuộc đời chúng ta vẫn còn tính cách thực tế và thúc bách như là nhiệm vụ của các môn đệ tiên khởi. Chúng ta phải loan truyền Tin Mừng cho tất cả mọi người sẵn lòng lắng nghe. Công bố trực tiếp và đích thân – một người chia sẻ niềm tin vào Ðức Kitô Phục Sinh với một người khác – là điều căn bản; những hình thức truyền thống khác trong việc loan truyền Tin Mừng cũng vậy. Nhưng, cùng với các hình thức này, công bố Tin Mừng ngày nay cũng phải thực hiện bằng phương tiện truyền thông. “Giáo Hội cảm thấy có lỗi trước mặt Chúa nếu không sử dụng những phương thế mạnh mẽ này” (ÐTC Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, 45).
Tác động của truyền thông trong thế giới ngày nay khó có thể mà cường điệu hơn được nữa. Xã hội thông tin là một cuộc cách mạng văn hóa thật sự, biến truyền thông thành “một thứ hội đồng tối cao của thời nay” (Redemptoris Missio, 37), nơi mà những dữ kiện, ý tưởng và giá trị được trao đổi thường xuyên. Qua truyền thông, con người bắt liên lạc với người khác và những biến cố, và hình thành quan điểm về cuộc thế giới họ đang sống trong đó – tức là, hình thành sự hiểu biết về ý nghĩa cuộc sống. Ðối với nhiều người, kinh nghiệm sống là kinh nghiệm truyền thông ở một mức độ cao nhất (Hội đồng Giáo hoàng Truyền thông Xã hội, Aetatis Novae, 2). Việc công bố Ðức Kitô phải là một phần trong kinh nghiệm này.
Ðương nhiên, trong việc công bố Ðức Kitô, Giáo Hội phải sử dụng năng động và khéo léo các phương tiện truyền thông của mình- sách báo, truyền thanh, truyền hình, và các phương thế khác. Và những người làm truyền thông Công Giáo phải táo bạo và sáng tạo trong việc phát triển ngành truyền thông và các phương tiện thông truyền mới. Nhưng, Giáo Hội cũng phải sử dụng các cơ hội có được trong ngành truyền thông ngoài đời càng nhiều càng tốt.
Ngành truyền thông đã góp phần làm phong phú hóa đời sống thiêng liêng bằng nhiều cách – chẳng hạn, nhiều chương trình đặc biệt được đưa đến mọi người khắp thế giới qua vệ tinh viễn thông trong Ðại Năm Thánh. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khác, ngành truyền thông phô bày sự lãnh đạm, ngay cả sự thù địch, với Ðức Kitô và sứ điệp của Ngài, hiện tồn tại ở một phần nào đó của nền văn hóa thế tục. Vì thế cần phải có một thứ “kiểm điểm lương tâm” về phía ngành truyền thông hầu dẫn đến việc ý thức hơn về thành kiến hay thiếu sự kính trọng đối với niềm xác tín về tôn giáo hay luân lý.
Các trình bày của ngành truyền thông kêu gọi sự chú ý đến nhu cầu thật sự của con người, đặc biệt là của những người yếu đuối, người dễ bị và sống bên lề xã hội, có thể là một sự công bố ngấm ngầm về Ðức Kitô. Nhưng ngoài việc loan báo ngấm ngầm, những người làm truyền thông Kitô giáo cũng nên tìm cách nói thẳng về Chúa Giêsu chịu đóng đinh và phục sinh, về cuộc vinh thắng khải hoàn của Ngài đối với tội lỗi và sự chết, bằng một cách thế phù hợp với ngành truyền thông và khả năng của người tiếp nhận.
Ðể hoàn thành tốt đẹp điều này đòi hỏi phải có huấn luyện và kỹ năng chuyên môn. Nhưng còn hơn thế nữa. Hầu làm chứng tá cho Ðức Kitô, điều cần thiết là phải gặp gỡ chính Ngài và nuôi dưỡng quan hệ với Ngài qua cầu nguyện, qua Bí tích Thánh Thể và Hòa Giải, đọc và suy niệm Lời Chúa, học hỏi về đạo, và phục vụ kẻ khác. Và luôn luôn điều này, đó là nếu công tác truyền thông mang tính chân thật, nó sẽ phải là công việc của Chúa Thánh Thần hơn là công việc của chúng ta.
Loan truyền Ðức Kitô không chỉ là một nhiệm vụ nhưng là một đặc ân. “Các tín hữu tiến về thiên niên kỷ thứ ba không phải với thái độ mệt mỏi vì gánh nặng chồng chất của 2000 năm lịch sử. Nhưng đúng hơn, các Kitô hữu phải cảm thấy phấn khởi khi nghĩ đến việc mình đem lại cho thế giới ánh sáng đích thực là Chúa Kitô. Khi loan báo Ðức Giêsu Nazarét là Thiên Chúa thật và là Con Người thật, Hội Thánh mở ra cho mỗi con người viễn cảnh được ‘thần hóa’ và nhờ vậy được trở nên người hơn” (Incarnationis Mysterium, 2).
Ðại Năm Thánh kỷ niệm lần thứ 2000 Chúa Giêsu sinh ra tại Nazarét phải là một cơ hội và là một thách đố đối với các môn đệ của Ngài trong việc làm chứng tá cho Tin Mừng cứu rỗi bằng ngành truyền thông. Trong “năm hồng ân” này, ước gì ngành truyền thông lên tiếng về chính Chúa Giêsu một cách rõ ràng và hân hoan, trong đức tin, đức cậy và đức mến. Loan báo Ðức Kitô bằng truyền thông vào buổi bình mình của thiên niên kỷ mới không chỉ là một phần cần thiết trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội. Sứ điệp truyền thông cũng được phong phú hóa một cách thiết yếu, tạo phấn khởi và tràn trề hy vọng. Nguyện xin Thiên Chúa ban ơn lành dồi dào cho tất cả những ai vinh danh và công bố Người Con của Ngài, Ðức Giêsu Kitô, trong thế giới bao la của các phương tiện truyền thông xã hội.
Ðiện Vatican, ngày 24.01.2000
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
SỨ ÐIỆP NGÀY TRUYỀN THÔNG THẾ GIỚI 25/05/2001
NĂM 2001
Chủ đề: “Hãy rao giảng từ mái nhà”
Tin Mừng trong Thời đại Truyền Thông Toàn cầu.
1. Chủ đề tôi chọn cho Ngày Truyền Thông Thế Giới năm 2001 vang vọng lời của chính Chúa Giêsu. Không thể khác hơn được vì chính Ðức Kitô mà thôi là Ðấng chúng ta rao giảng. Chúng ta nhớ lại lời của Ngài với các môn đồ tiên khởi: “Ðiều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm hãy nói ra giữa ban ngày; điều anh em nghe rỉ tai, hãy lên mái nhà rao giảng” (Mt 10:27). Trong sự bí ẩn của tâm hồn, chúng ta đã lắng nghe sự thật của Ðức Giêsu; giờ chúng ta phải công bố sự thật đó từ mái nhà. Trong thế giới ngày nay, mái nhà hầu như luôn được đánh dấu bởi một rừng đài phát tuyến và ănten gửi đi và nhận về những sứ điệp thuộc mọi thứ và từ bốn phương thiên hạ. Ðiều rất quan trọng là làm sao bảo đảm cho được trong nhiều sứ điệp này lời của Thiên Chúa được nghe đến. Công bố đức tin từ mái nhà ngày nay có nghĩa là nói lời của Chúa Giêsu trong và qua thế giới năng động của ngành truyền thông.
2. Trong mọi nền văn hóa và ở mọi thời đại – chắc chắn là giữa những biến đổi toàn cầu ngày nay – người ta thắc mắc cùng những thứ câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống: Tôi là ai? Tôi từ đâu đến và tôi đi về đâu? Tại sao có sự dữ? Sau cuộc sống này còn gì nữa? (Cf. Fides et Ratio, 1). Và ở mỗi thời, Giáo Hội đưa lại một câu trả lời thỏa mãn tối hậu cho những thắc mắc sâu xa nhất trong tâm hồn con người – đó chính là Ðức Giêsu, “Ðấng đã cho con người biết rõ về chính con người và tỏ cho họ biết thiên chức rất cao cả của họ” (Gaudium et Spes, 22). Do đó, người Kitô hữu không thể im lặng, vì Chúa đã phó thác cho chúng ta lời cứu rỗi mà mọi tâm hồn đều mong mỏi nhận được. Phúc âm đem lại viên ngọc đắt giá mà mọi người đều kiếm tìm (cf. Mt 13:45-46).
Cho nên Giáo Hội không thể không dấn thân vào thế giới truyền thông đang nở rộ. Mạng lưới truyền thông toàn cầu đang trải rộng, ngày càng phức tạp, và truyền thông đang có một ảnh hưởng càng thấy rõ đối với nền văn hóa và việc truyền đạt nó. Có một thời truyền thông tường thuật những biến cố, giờ thì các biến cố thường được uốn nắn để đáp ứng nhu cầu của truyền thông. Do đó, mối tương quan giữa thực tế và truyền thông càng lúc càng phức tạp và đây là một hiện tượng mang tính chất mâu thuẫn sâu đậm. Một mặt, mối tương quan này có thể làm mờ đi sự phân biệt giữa sự thật và ảo tưởng; nhưng mặt khác, nó có thể mở ra những cơ hội chưa từng có khiến sự thật được nhiều người biết đến dễ dàng hơn. Nhiệm vụ của Giáo Hội là bảo đảm cho điều sau thực sự xảy ra.
3. Thế giới truyền thông đôi khi có thể thờ ơ và ngay cả thù địch với đức tin và luân lý Kitô giáo. Một phần là do văn hóa truyền thông bị thấm nhiễm nặng ý thức hậu hiện đại cho rằng sự thật tuyệt đối duy nhất là không có sự thật tuyệt đối nào cả hoặc nếu có sự thật tuyệt đối đi chăng nữa thì lý trí con người không thể biết được và như thế chẳng ăn nhập gì cả. Theo quan điểm này, điều chủ yếu không phải là sự thật nhưng là “câu chuyện”; nếu có gì đáng làm thành tin hoặc mang tính cách giải trí, cơn cám dỗ hầu như không thể chống trả nổi đó là gác qua một bên những mối bận tâm về sự thật. Hậu quả là thế giới thông tin đôi khi có thể xem ra là một môi trường không mấy thiện cảm đối với công cuộc phúc âm hóa y như thế giới ngoại giáo thời các Tông đồ. Nhưng như các chứng tá Phúc Âm tiên khởi không lùi bước khi gặp chống đối, những người môn đệ của Ðức Kitô ngày nay cũng phải như thế. Tiếng kêu của Thánh Phaolô vẫn còn vang vọng trong chúng ta: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1 Cor 9:16).
Tuy thế, như khi thế giới truyền thông nhiều lúc có thể đối nghịch với sứ điệp Kitô giáo, nó cũng đem lại những cơ hội độc đáo cho việc loan báo sự thật cứu độ của Ðức Kitô cho cả gia đình nhân loại. Chẳng hạn, hãy xem các cuộc phát hình qua vệ tinh những lễ nghi tôn giáo thường truyền đi đến cả thế giới, hay là khả năng tích cực của mạng lưới điện toán toàn cầu Internet khi đưa những thông tin và lời giảng dạy tôn giáo vượt ra ngoài mọi cản trở và biên giới. Một con số lớn khán thính giả như thế quả là vượt quá sức tưởng tượng mãnh liệt nhất của những người rao giảng Tin Mừng đi trước chúng ta. Vì thế điều cần thiết trong thời đại chúng ta là Giáo Hội phải làm một cuộc dấn thân tích cực và sáng tạo vào ngành truyền thông. Người Công giáo không nên sợ hãi khi mở rộng cánh cửa truyền thông xã hội ra cho Ðức Kitô để Tin Mừng của ngài có thể nghe được từ những mái nhà trên thế giới!
4. Ðiều cũng quan trọng, đó là bắt đầu thiên niên kỷ thứ ba chúng ta nên nhớ đến sứ mạng rao giảng cho muôn dân mà Ðức Kitô đã phó thác cho Hội Thánh. Ước chừng có đến 2/3 trong số 6 tỉ người trên thế giới không biết đến Ðức Giêsu Kitô, và nhiều người sống trong những quốc gia có cội nguồn Kitô giáo xa xưa, nơi đó những nhóm tín hữu hoàn toàn đánh mất ý thức sống động về đức tin, không còn xem mình là thành phần của Giáo Hội, sống xa Chúa và Phúc âm của Ngài (cf. Redemptoris missio, 33). Chắc chắn, một câu trả lời có hiệu quả cho tình hình này có liên quan nhiều hơn là chỉ có vấn đề truyền thông; nhưng trong nỗ lực đáp ứng thách đố này người Kitô hữu không thể bỏ qua thế giới truyền thông xã hội. Thực vậy, mọi thứ truyền thông có thể đóng vai trò chủ chốt trong công cuộc phúc âm hóa trực tiếp và đem lại cho người ta những sự thật và giá trị nhằm nâng đỡ và đề cao phẩm giá con người. Thực vậy, sự hiện diện của Giáo Hội trong ngành truyền thông là một khía cạnh quan trọng của việc hội nhập văn hóa Tin Mừng. Ðây là điều công cuộc Tân Phúc âm hóa đòi hỏi và Chúa Thánh Thần kêu gọi Giáo Hội thực hiện khắp thế giới.
Khi toàn thể Giáo Hội cố lắng nghe tiếng gọi của Chúa Thánh Thần, những Kitô hữu hoạt động truyền thông có “một nhiệm vụ ngôn sứ, một ơn gọi: lên tiếng chống lại những vị thần giả dối và các ngẫu tượng – chủ nghĩa duy vật chất, chủ nghĩa khoái lạc, chủ nghĩa tiêu thụ, chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi.” (Ðạo đức trong Ngành Truyền thông, 31). Trên hết, họ có nhiệm vụ và đặc quyền công bố sự thật – sự thật vinh quang về sự sống và vận mạng con người được Ngôi Lời nhập thể mạc khải. Ước gì những người Công giáo có liên quan đến thế giới truyền thông xã hội rao giảng sự thật của Chúa Giêsu can đảm hơn và tươi vui hơn từ những mái nhà, để mọi người có thể nghe được về tình yêu thương là cốt lõi của việc Thiên Chúa tự thông truyền chính mình nơi Ðức Giêsu Kitô, Ðấng vẫn là một hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời (cf Dt 13:8).
Làm tại Ðiện Vatican, ngày 24 tháng 1 năm 2001
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
SỨ ÐIỆP NGÀY TRUYỀN THÔNG THẾ GIỚI LẦN THỨ 36
NĂM 2002
Internet: Diễn đàn mới để Loan Báo Tin Mừng
Anh chị em thân mến,
1. Giáo Hội trong mọi thời đại tiếp tục công trình đã khởi sự từ ngày lễ Hiện xuống, khi các Tông đồ, trong quyền năng Chúa Thánh Thần, ra đi trên các đường phố của Giê-ru-sa-lem để loan báo tin mừng của Ðức Giê-su Kitô bằng nhiều thứ tiếng (x. Cv 2,5-11). Suốt những thế kỷ tiếp theo, sứ vụ phúc âm hóa đó lan rộng đến mọi hang cùng ngõ hẻm của địa cầu, lúc Kitô giáo cắm rễ tại nhiều nơi và học cách nói bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, bởi vì luôn vâng phục lệnh truyền của Ðức Kitô là rao giảng Tin mừng cho mọi dân nước (x. Mt 28,19-20).
Nhưng lịch sử truyền giáo không chỉ là vấn đề bành trướng về địa lý, bởi vì Giáo Hội cũng cần phải vượt qua nhiều ngưỡng cửa văn hóa, mỗi ngưỡng cửa đều đòi hỏi những năng lực và sáng kiến mới mẻ trong việc loan báo Tin mừng của Ðức Giê-su Ki-tô. Thời đại những khám phá lớn lao, thời Phục hưng và phát minh ngành in, thời Cách mạng kỹ nghệ và sự xuất hiện của thế giới hiện đại: những thời gian đó cũng là những ngưỡng cửa đòi có những hình thức phúc âm hóa mới mẻ. Giờ đây, với cuộc cách mạng truyền thông và tin học đang độ cao trào, Giáo Hội hiển nhiên đang đứng ở một cổng vào khác có tính quyết định. Vì thế, quả là thích hợp vào ngày Quốc tế truyền thông năm 2002 chúng ta sẽ suy nghĩ về chủ đề: “Internet: Diễn đàn mới để Loan báo Tin mừng”.
2. Internet quả là một “diễn đàn” mới, hiểu theo nghĩa của Rô-ma cổ là một địa điểm công cộng nơi đó các việc chính trị và thương mại được tiến hành, các bổn phận tôn giáo được chu toàn, nhiều sinh hoạt xã hội được diễn ra, và những gì tốt đẹp nhất và tệ hại nhất trong bản tính nhân loại được phô bày ra. Ðây là một khoảng không gian của thành phố đông đúc và hối hả, phản ánh nền văn hóa bao quanh đồng thời tạo nên một nền văn hóa cho riêng mình. Ðiều đó cũng đúng với không gian máy tính (cyberspace), đây được xem như là một lĩnh vực mới mở ra vào lúc khởi đầu thiên niên kỷ mới. Giống như những lĩnh vực mới của các thời đại khác, nó cũng đầy những nguy cơ và hứa hẹn, và không thiếu vắng sự mạo hiểm đã đánh dấu những thời kỳ thay đổi lớn lao khác. Ðối với Giáo Hội, thế giới ảo mới mẻ này mời gọi làm cuộc mạo hiểm lớn lao là sử dụng năng lực của nó để loan báo sứ điệp Tin mừng. Vào lúc khởi đầu của thiên niên kỷ mới, thách đố này nằm ở trung tâm ý nghĩa của việc tuân theo mệnh lệnh “ra khơi” của Chúa: Duc in altum! (Lc 5,4).
3. Giáo Hội tiếp cận phương tiện mới mẻ này với thái độ thực tiễn và tin tưởng. Cũng như những phương tiện truyền thông khác, đây là một phương tiện chứ không là một cùng đích. Internet có thể ban tặng những cơ hội tuyệt vời để loan báo Tin mừng nếu được sử dụng cách thành thạo và khi ta ý thức rõ đến mặt mạnh và mặt yếu của nó. Trước tiên, khi cung cấp những thông tin và gợi lên những thích thú, nó tạo nên sự gặp gỡ ban đầu với sứ điệp Kitô giáo, đặc biệt giữa những người trẻ càng ngày càng hướng về thế giới máy tính như là cửa sổ Của thế giới. Vì thế điều quan trọng là cộng đoàn Kitô hữu suy nghĩ về những cách thức thực tiễn để giúp những người mới tiếp cận Internet chuyển từ thế giới ảo của máy tính đến thế giới thực của cộng đoàn Kitô hữu.
Tiếp đó, Internet cũng có thể cung cấp một hình thức bước đi theo mà việc loan báo Tin mừng đòi hỏi. Ðặc biệt trong một nền văn hóa không mang lại cho ta những trợ giúp, đời sống Kitô hữu cần đến những chỉ dẫn và giáo lý vững chắc, và đó có lẽ là lãnh vực mà Internet có thể cung cấp những trợ lực quí báu. Ðã có trên mạng biết bao nguồn thông tin, tài liệu và giáo dục về Giáo Hội, lịch sử và truyền thống, giáo thuyết và dấn thân của Giáo Hội trong mọi lãnh vực trên mọi nơi của thế giới. Vì thế, rõ ràng rằng trong khi Internet không thể thay thế kinh nghiệm sâu xa với Thiên Chúa mà chỉ đời sống sinh động, phụng vụ và bí tích mới có thể trao tặng, chắn chắn nó cung cấp một bổ sung và trợ lực vô song cho việc chuẩn bị gặp gỡ Ðức Kitô trong cộng đoàn và nâng đỡ người mới tin trong cuộc hành trình đức tin vừa mới bắt đầu.
4. Tuy nhiên có một số câu hỏi cần thiết và hiển nhiên nảy sinh khi sử dụng Internet để loan báo Tin mừng. Quả thế, bản chất của Internet là cung cấp một nguồn thông tin hầu như vô tận, mà phần lớn chỉ có tính nhất thời. Trong một nền văn hoá được nuôi dưỡng bằng cái chóng qua, người ta dễ có nguy cơ tin rằng chính những sự kiện, chứ không phải những giá trị mới quan trọng. Internet trao tặng những kiến thức rộng rãi chứ không dạy về các giá trị; và khi các giá trị bị coi thường, nhân tính của chúng ta bị giảm sút và con người dễ dàng quên đi phẩm giá siêu việt của mình. Dầu nó có khả năng vô biên làm những điều tốt Đẹp, nhưng một vài cách thế đê hèn và gây hại mà Internet có thể được sử dụng là điều mà mọi người đều thấy, và chính quyền chắc chắn có trách nhiệm bảo đảm rằng công cụ tuyệt diệu này phục vụ ích chung và không trở thành một nguồn gây nguy hại.
Hơn thế nữa, Internet xác định lại cách tận căn mối tương quan tâm lý của một con người đối với thời gian và không gian. Người ta chú ý đến cái hữu hình, ích lợi và có giá trị tức thời; có thể thiếu cái thúc đẩy đào sâu tư tưởng và suy tư. Quả thế con người rất cần đến những Khoảnh khắc và thinh lặng nội tâm để suy tư và xem xét cuộc sống và mầu nhiệm của nó, và dần dần làm chủ cách trưởng thành chính mình và thế giới bao quanh. Hiểu biết và khôn ngoan là kết quả của việc chiêm ngưỡng thế giới, chứ không đến từ sự tích lũy đơn thuần các sự kiện, dầu gây thích thú như thế nào đi chăng nữa. Chúng là kết quả của một cái nhìn thấu suốt ý nghĩa sâu xa của sự vật trong tương quan với nhau hay với toàn thể thực tại. Hơn nữa, như một diễn đàn trong đó mọi sự được chấp nhận một cách thực tế và hầu như không có gì bền vững, Internet ủng hộ một lối suy nghĩ mang tính tương đối và đôi khi khuyến khích trốn chạy khỏi trách nhiệm và dấn thân cá nhân.
Trong một bối cảnh như thế, làm sao chúng ta có thể trau dồi sự khôn ngoan phát xuất không chỉ từ thông tin nhưng từ suy tư, sự khôn ngoan biết cách phân biệt phải trái, và duy trì bậc thang giá trị phát sinh từ sự khác biệt đó?
5. Nhờ Internet, người ta nhân lên những cơ hội tiếp xúc theo những cách thức mà cho tới nay không thể tưởng tượng được. Sự kiện ấy mở ra những khả năng kỳ diệu truyền bá Tin mừng. Nhưng cũng phải nhận thức rằng những mối tương quan được thiết lập nhờ các phương tiện điện tử không bao giờ có thể thay thế sự tiếp xúc trực tiếp và nhân bản, cần thiết cho việc loan báo Tin mừng đích thực. Bởi vì việc loan báo Tin mừng luôn tùy thuộc chứng tá cá nhân của người được sai đi loan báo Tin mừng (x. Rm 10,14-15). Giáo Hội phải làm như thế nào đây để chuyển từ loại tiếp xúc nhờ Internet đến sự giao tiếp sâu xa hơn mà việc loan báo Kitô giáo đòi hỏi? Chúng ta phải phát triển như thế nào sự tiếp xúc đầu tiên và trao đổi thông tin do Internet đem lại?
Chắc chắn là cuộc cách mạng điện tử hứa hẹn sẽ mang lại nhiều khám phá tích cực để phát triển thế giới; nhưng cũng có khả năng nó làm gia tăng những bất bình đẳng hiện có khi sự chênh lệch về thông tin và phương tiện giao tiếp càng gia tăng. Làm sao chúng ta có thể bảo đảm rằng cuộc cách mạng thông tin và giao tiếp mà Internet là phương tiên hàng đầu sẽ giúp cho việc toàn cầu hóa về phương diện phát triển con người và tình liên đới là những mục tiêu gắn liền mật thiết với sứ vụ loan báo Tin mừng của Giáo Hội?
Cuối cùng, trong thời buổi nhiễu nhương này, cho phép tôi đặt ra câu hỏi: làm sao chúng ta có thể bảo đảm rằng phương tiện kỳ diệu này trước kia được hình thành trong bối cảnh hoạt động quân sự giờ đây có thể phục vụ cho chính nghĩa hòa bình? Nó có thể giúp cho nền văn hóa của đối thoại, tham gia, liên đới và hòa giải mà không có nó thi hòa bình không thể triển nở không? Giáo Hội tin rằng nó có thể; và để bảo đảm rằng đó là điều sẽ xảy ra, Giáo Hội nhất quyết đi vào diễn đàn mới mẻ này, khi được trang bị bằng Tin mừng của Ðức Ki-tô, Hoàng tử Hòa bình.
6. Internet làm cho hàng tỉ hình ảnh xuất hiện trên hàng triệu màn hình máy tính trên khắp địa cầu. Từ giải ngân hà hình ảnh và âm thanh đó, khuôn mặt Ðức Kitô có hiện lên và tiếng nói của Ðức Kitô có được nghe không? Bởi vì chỉ khi khuôn mặt của Người được thấy và tiếng nói của Người được nghe mà thế giới sẽ biết đến Tin mừng cứu chuộc. Ðó là mục tiêu của việc loan báo Tin mừng. Và đó chính là điều sẽ làm cho Internet trở thành một không gian đích thực của con người, bởi vì nếu không có chỗ cho Ðức Kitô thì cũng không có chỗ cho con người. Vì thế, trong Ngày Truyền thông thế giới này, tôi dám kêu gọi toàn thể Giáo Hội dũng cảm bước qua ngưỡng cửa mới mẻ này, để ra khơi trong biển sâu là mạng máy tính, để hôm nay cũng như trong quá khứ, sự dấn thân cao cả cho Tin mừng và văn hóa có thể tỏ cho thế giới “vinh quang của Thiên Chúa trên khuôn mặt Ðức Ki-tô” (2 Cr 4,6). Nguyện xin Chúa chúc lành cho những ai đang hành động cho mục tiêu đó.
Vatican, ngày 24 tháng 1 năm 2002
+ Gioan Phaolô II
SỨ ÐIỆP NGÀY TRUYỀN THÔNG THẾ GIỚI LẦN THỨ 37
NĂM 2003
“Phương Tiện Truyền Thông Đại Chúng Phục Vụ Hòa Bình Chân Chính Theo Ý Nghĩa Của Thông Điệp ‘Hòa Bình Dưới Thế’”
Anh Chị Em thân mến,
1. Trong những ngày tăm tối của một Cuộc Chiến Tranh Lạnh, Bức Thông Điệp “Hòa Bình Dưới Thế” của Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII đã xuất hiện như một hải đăng hy vọng cho những con người nam nữ thiện tâm. Khi tuyên bố là nền hòa bình chân chính cần phải “cẩn thận tuân giữ trật tự được Thiên Chúa thiết lập” (Pacem in Terris, 1), Đức Thánh Cha này đã vạch ra cho thấy những rường cột của một xã hội thái hòa là sự thật, công lý, bác ái và tự do (Ibid, 37).
Việc nổi lên quyền lực của những phương tiện truyền thông xã hội tân tiến đã làm nên một phần quan trọng cho bức phông của Bức Thông Điệp này. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã đặc biệt nghĩ đến vấn đề truyền thông đại chúng trong đầu khi Ngài kêu gọi “công bằng và vô tư” trong việc sử dụng “những phương tiện cổ võ và truyền bá việc hiểu biết giữa các quốc gia” do khoa học và kỹ thuật cung cấp; Ngài đã than “những cách thức tuyên truyền tín liệu vi phạm đến nguyên tắc sự thật và công lý, và làm tổn thương đến tiếng tăm của dân tộc khác” (Ibid, 90).
2. Hôm nay, như chúng ta kỷ niệm 40 năm bức Thông Điệp “Hòa Bình Dưới Thế”, thì việc chia rẽ các dân tộc thành hai khối hầu như đã trở thành một ký ức đau thương, thế nhưng hòa bình, công lý và tình trạng bền vững của xã hội vẫn còn đang bị hụt hẫng ở nhiều phần đất trên thế giới. Vấn đề khủng bố, tình trạng xung đột ở Trung Đông và ở những miền khác, những mối đe dọa và chống đe dọa, tình trạng bất công, khai thác, những cuộc tấn công phẩm giá và sự thánh hảo của sự sống con người cả trước và sau khi sinh, đều là những thực tại buồn nản của thời đại chúng ta.
Trong khi đó, quyền lực của vấn đề truyền thông đại chúng trong việc hình thành những mối liên hệ nhân bản cũng như trong việc chi phối sinh hoạt chính trị cùng xã hội, cả tốt lẫn xấu, đã tăng triển rất nhiều. Bởi thế đề tài hợp thời được chọn cho Ngày Thế Giới Truyền Thông Năm Thứ 37 là: “Những Phương Tiện Truyền Thông Đại Chúng Phục Vụ Hòa Bình Chân Chính Theo Ý Nghĩa Của Thông Điệp ‘Hòa Bình Dưới Thế’”. Thế giới và phương tiện truyền thông đại chúng vẫn còn nhiều điều phải học nơi sứ điệp của Vị Giáo Hoàng Chân Phước Gioan XXIII này.
3. Vấn đề truyền thông đại chúng và Sự Thật. Vấn đề đòi hỏi căn bản về luân lý đối với tất cả mọi thứ truyền đạt đó là việc tôn trọng sự thật và phục vụ sự thật. Quyền tự do tìm kiếm và nói những gì chân thực là những gì thiết yếu cho việc truyền đạt của con người, chẳng những liên quan đến dữ kiện và tín liệu, mà nhất là còn liên quan đến bản tính và định mệnh của con người, đến xã hội và công ích, đến mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa nữa. Về khía cạnh này, vấn đề truyền thông đại chúng có một trách nhiệm bất khả tránh, vì nó tạo nên một vận trường tân tiến tạo cơ hội cho việc chia sẻ tư tưởng, cũng như cho dân chúng hiểu biết và liên kết với nhau hơn. Đó là lý do tại sao Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã bênh vực quyền “tự do điều tra sự thật và, trong giới hạn của lãnh vực luân lý và công ích, tự do phát biểu và phát hành” như những điều kiện cần thiết cho hòa bình xã hội (Pacem in Terris, 12).
Thật vậy, vấn đề truyền thông đại chúng thường can trường cống hiến cho việc phụng sự chân lý; thế nhưng đôi khi chúng hành sử như những tác nhân của việc tuyên truyền cũng như của việc tung tin thất thiệt để phục vụ những lợi lộc hẹp hòi, góp phần gây ra những xúc phạm liên quan đến các quốc gia, đến thành phần thiểu số, đến chủng tộc và tôn giáo, phục vụ lòng tham làm vật chất, cũng như phục vụ cho các thứ ý hệ sai lầm khác nhau. Những áp lực thúc đẩy các phương tiện truyền thông đại chúng tác hành một cách sai lầm như vậy, trước hết cần phải được chính tất cả mọi con người nam nữ đi làm truyền thông chống lại, và cả Giáo Hội cùng các nhóm quan tâm khác nữa.
4. Vấn đề truyền thông đại chúng và Công lý. Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII đã nói chí lý trong “Thông Điệp “Hòa Bình Dưới Thế” về sự thiện nhân bản phổ quát, đó là “sự thiện của toàn thể gia đình nhân loại” (số 132), mà hết mọi cá nhân và tất cả mọi dân tộc được quyền chia sẻ.
Về khía cạnh này thì việc truyền thông đại chúng vươn mình ra khắp thế giới mang một trách nhiệm đặc biệt. Phải công nhận là các phương tiện truyền thông đại chúng thường thuộc về những nhóm có xu hướng riêng, công cũng như tư, nhưng chính bản chất của việc chúng ảnh hưởng đến đời sống buộc chúng không được nhúng tay vào việc làm cho nhóm này kình chống nhóm kia, chẳng hạn, nhân danh việc xung khắc giai cấp gây quá khích tinh thần quốc gia dân tộc, quá khích chủ Trương đệ nhất giống nòi, quá khích việc thanh toán chủng tộc, và những điều giống như vậy. Nhân danh tôn giáo làm cho người này chống lại người kia là một thua bại hết sức nặng nề trước sự thật và công lý, vì nó là một thứ đối xử kỳ thị về các niềm tin tôn giáo, bởi những niềm tin này thuộc về một lãnh giới sâu xa nhất của phẩm giá và tự do của con người.
Bởi việc tường trình chính xác các biến cố, cắt nghĩa một cách đúng đắn các vấn đề và trình bày khách quan những quan điểm khác nhau, mà các phương tiện truyền thông đại chúng có một nhiệm vụ nghiêm ngặt trong việc bồi dưỡng công lý và tình đoàn kết nơi các mối liên hệ nhân bản ở tất cả mọi lãnh vực trong xã hội. Điều này không có nghĩa là giải thích về những mối bất bình và chia rẽ song đào sâu vào những căn nguyên của chúng để hiểu chúng và chữa lành.
5. Vấn đề truyền thông đại chúng và Tự Do. Tự do là một điều kiện tiên quyết cho hòa bình thực sự cũng là một trong những hoa trái cao cả nhất của nó. Các phương tiện truyền thông đại chúng phục vụ tự do bằng việc phục vụ sự thật, ở chỗ, chúng cản trở tự do ở chỗ chúng xa lìa những gì là chân thật khi loan truyền những điều sai lạc hay tạo nên một bầu khí gây phản ứng sôi nổi thiếu lành mạnh trước những biến cố xẩy ra. Chỉ khi nào con người ta dễ dàng biết được những tín liệu đúng đắn và đầy đủ họ mới có thể theo đuổi công ích và giữ được vai trò chính quyền cho có uy tín.
Nếu các phương tiện truyền thông đại chúng muốn phục vụ tự do thì tự chúng phải được tự do và sử dụng chính xác cái tự do này. Vị trị đặc biệt của chúng buộc chúng phải vượt trên những tìm kiếm thuần thương mại và phục vụ những thiện ích và nhu cầu thực sự của xã hội. Mặc dù có một số điều lệ công khai về các phương tiện truyền thông đại chúng xứng hợp chú trọng tới công ích thì việc chính quyền kiểm soát lại không xứng hợp. Các ký giả và bình luận gia đặc biệt có nhiệm vụ nặng nề trong việc làm theo những gì lương tâm luân lý họ đòi hỏi và chống lại những áp lực bắt họ phải “thích ứng” sự thật để làm thỏa mãn những đòi hỏi của thành phần giầu có hay của quyền bính chính trị.
Vấn đề thực tế là cần phải tìm cách để làm sao chẳng những cống hiến cho những khối phần tử yếu kém hơn trong xã hội có được những tín liệu họ cần cho việc phát triển cá nhân cũng như xã hội của họ, mà còn phải làm sao bảo đảm được rằng họ không bị tẩy chay không cho góp phần một cách hiệu lực và hữu trách trong việc quyết định về nội dung của các phương tiện truyền thông đại chúng cũng như trong việc ấn định những cấu trúc và qui chế cho các phương tiện truyền thông xã hội.
6. Vấn đề truyền thông đại chúng và Yêu Thương. “Cơn giận dữ của con người không tỏ ra sự công chính của Thiên Chúa” (Gc 1:20). Ở vào cao điểm của Cuộc Chiến Tranh Lạnh, Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII đã bày tỏ tư tưởng đơn sơ song sâu xa này về những gì đường lối hòa bình cần phải theo, đó là: “Việc bảo trì hòa bình cần phải tùy thuộc vào một nguyên tắc hoàn toàn khác với nguyên tắc đang được thi hành hiện nay. Hòa bình thực sự giữa các quốc gia không được tùy thuộc vào việc làm sao để có được một số lượng khí giới ngang nhau, mà hoàn toàn ở lòng tin tưởng lẫn nhau mà thôi” (Pacem in Terris, 113).
Các phương tiện truyền thông đại chúng là những diễn viên chính yếu trên thế giới hôm nay, và chúng đóng một vai trò quan trọng trong việc góp phần xây dựng niềm tin tưởng nhau này. Chúng có một quyền năng đến nỗi chỉ trong vòng mấy ngày ngắn ngủi chúng có thể tạo nên một phản ứng công cộng tích cực hay tiêu cực theo ý đồ của chúng trước những biến cố xẩy ra. Những con người hiểu biết nhận thấy rằng cái quyền năng mãnh liệt này cần phải căn cứ vào những tiêu chuẩn cao nhất trong việc dấn thân phục vụ sự thật và sự thiện. Theo chiều hướng này, những con người nam nữ đi làm truyền thông đặc biệt buộc phải góp phần xây dựng hòa bình ở tất cả mọi phần đất trên thế giới, bằng việc phá đổ những chướng ngại ngờ vực nhau, nuôi dưỡng việc chú trọng tới quan điểm của người khác, và luôn cố gắng mang các dân tộc và quốc gia xích lại gần nhau bằng việc hiểu biết và tôn trọng nhau, thậm chí vượt trên cả việc hiểu biết và tôn trọng nhau nữa, tức tới cả chỗ hòa giải và xót thương! “Nơi nào hận thù và nung nấu trả thù chủ trị, nơi nào chiến tranh mang lại khổ đau và chết chóc cho thành phần vô tội, thì nơi ấy cần đến ân sủng của tình thương để ổn định tâm trí con người cũng như để mang lại hòa bình” (Homily at the Shrine of Divine Mercy at Kraków-Lagiewniki, 17 August 2002, No. 5).
Nêu lên tất cả những thứ thách đố này không có nghĩa là yêu cầu quá nhiều nơi những con người nam nữ đi làm truyền thông đại chúng. Vì, theo ơn gọi cũng như nghề nghiệp của mình, họ được kêu gọi để trở thành những tác nhân của sự thật, công lý, tự do và yêu thương, bằng việc đóng góp hoạt động quan trọng của họ cho một trật tự xã hội “được thiết lập trên sự thật, được xây dựng trên công lý, được bảo dưỡng và sinh động bởi bác ái, và được hiệu nghiệm bởi việc bảo hộ của tự do” (Pacem in Terris, 167). Bởi vậy, lời cầu nguyện của Tôi trong Ngày Thế Giới Truyền Thông năm nay là những con người nam nữ đi làm truyền thông hơn bao giờ hết sống trọn cuộc đời trước những thách đố của ơn gọi của mình, ở chỗ phục vụ cho công ích đại đồng. Việc hoàn thành bản thân của họ cũng như hòa bình và hạnh phúc của thế giới tùy thuộc rất nhiều ở điều này. Xin Thiên Chúa chúc lành cho họ bằng ơn soi sáng và can đảm.
Tại Vatican ngày 24/1/2003
Gioan Phaolô II.
___________________________________
SỨ ĐIỆP TRUYỀN THÔNG THẾ GIỚI
NĂM 2004
“Các Phương tiện Truyền Thông & Gia Ðình: Mối Nguy Cơ & Sự Phong Phú”
Anh chị em thân mến,
1. Sự phát triển ngoại thường những phương tiện kỹ thuật truyền thông xã hội và việc càng ngày càng có sẵn những phương tiện nầy cho nhiều người hơn, cả hai đã mang đến những cơ may đặc biệt, để làm phong phú cuộc sống không những của những cá nhân, nhưng còn của những gia đình nữa. Ðồng thời, những gia đình ngày nay đang đối diện với những thách thức mới phát sinh từ những sứ điệp khác nhau và thường thì mâu thuẫn, do những phương tiện truyền thông trình bày. Chủ đề đã được chọn cho Ngày Thế Giới Truyền Thông Xã Hội năm 2004 – “Các Phương tiện Truyền Thông và Gia Ðình: Mối Nguy Cơ và Sự Phong Phú” – là chủ đề đúng lúc, bởi vì sứ điệp mời gọi mọi người hãy suy nghĩ cách nghiêm chỉnh về việc sử dụng mà các gia đình có đối với các phương tiện truyền thông xã hội, và rồi suy nghĩ về cách thức bởi đó các gia đình và những quan tâm của gia đình được bàn đến bởi các phương tiện truyền thông xã hội. Chủ đề của Sứ Ðiệp năm nay còn nhắc lại cho mỗi người, – những nhà truyền thông và những kẻ thừa hưởng nội dung truyền thông, – rằng tất cả mọi sự thông truyền đều có chiều kích luân lý. Như Chúa đã nói, chính từ sự phong phú có trong tâm hồn mà miệng lưỡi chúng ta nói ra (x. Mt 12,34-35). Con người phát triển thêm hay bị giảm xuống trong phẩm chất luân lý, do bởi những lời mà họ nói ra và những sứ điệp mà họ chọn lắng nghe. Vì thế, sự khôn ngoan và phân biệt trong việc sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội là điều đặc biệt cần thiết, từ Phía những nhà chuyên môn về truyền thông, những bậc làm cha mẹ và những nhà giáo dục, bởi vì những quyết định của họ có ảnh hưởng to lớn trên các trẻ em cũng như trên những người trẻ mà họ có trách nhiệm chăm sóc cho và là những người trẻ xét cho cùng là tương lai của xã hội.
2. Nhờ vào sự phổ biến rộng rãi chưa từng có của thị trường các phương tiện truyền thông xã hội trong những thập niên vừa qua, nhiều gia đình trên thế giới, cả những gia đình có phương tiện tài chánh khiêm tốn, giờ đây, từ nơi nhà riêng của họ, được tiếp cận với những nguồn tin bao la và đa dạng nhờ các phương tiện truyền thông nầy. Kết quả là họ được hưởng hầu như vô tận các cơ hội về thông tin, giáo dục, phổ biến văn hóa và cả phát triển đời sống thiêng liêng nữa; đây là những cơ may vượt xa các điều mà những gia đình thời trước có thể có.
Nhưng chính những phương tiện nầy có khả năng gây thiệt hại trầm trọng cho các gia đình, qua việc trình bày một quan niệm không tương xứng và ngay cả méo mó về sự sống, về gia đình, về tôn giáo và về luân lý. Khả năng của các phương tiện truyền thông xã hội hoặc để củng cố hoặc để xóa bỏ những giá trị truyền thống như tôn giáo, văn hóa và gia đình, (khả năng đó) đã được Công Ðồng Vatican II nhìn thấy rõ ràng và đã dạy rằng: “nếu muốn cho những phương tiện truyền thông xã hội được sử dụng đúng đắn, thì điều thiết yếu là tất cả những ai sử dụng chúng, phải biết rõ những nguyên tắc luân lý và trung thành áp dụng những nguyên tắc nầy” (trích “Inter Mirifica,” số 4). Truyền Thông trong bất cứ hình thức nào luôn phải được hướng dẫn bởi tiêu chuẩn luân lý của việc tôn trọng sự thật và tôn trọng phẩm giá con người.
3. Những nhận định trên áp dụng đặc biệt cho việc đối xử gia đình trong các phương tiện truyền thông xã hội. Một đàng, hôn nhân và đời sống gia đình thường được mô tả một cách tế nhị, sát thực tế nhưng cũng dễ cảm, đề cao những nhân đức như tình thương yêu, lòng trung thành, sự tha thứ và sự quảng đại hy sinh chính mình cho kẻ khác. Các phương tiện truyền thông xã hội tuy có trình bày những đổ vỡ và những thất vọng không thể nào tránh khỏi của các đôi bạn và gia đình – những căng thẳng, những xung đột, những thụt lùi, những chọn lựa điều xấu và những hành động xúc phạm – nhưng đồng thời cũng biết cố gắng phân biệt điều gì đúng điều gì sai, phân biệt tình thương chân chính với những gì giả tạo, và biết nêu ra tầm quan trọng không thể thay thế của gia đình, như là tế bào nền tảng của xã hội.
Ðàng khác, gia đình và đời sống gia đình lại quá thường bị mô tả một cách méo mó trong các phương tiện truyền thông xã hội. Sự bất trung, hoạt động tính dục ngoài vòng hôn nhân, và sự thiếu vắng một quan điểm luân lý và thiêng liêng về giao ước hôn nhân, tất cả những điều tiêu cực nầy được mô tả cách bừa bãi; thêm vào đó, sự ly dị, ngừa thai, phá thai và đồng tính luyến ái, đôi khi được ủng hộ tích cực. Những lập trường nầy, cổ võ những yếu tố đối nghịch với hôn nhân và gia đình, gây thiệt hại cho công ích của xã hội.
4. Một suy tư có ý thức về chiều kích luân lý của các phương tiện truyền thông xã hội nên dẫn đến những sáng kiến cụ thể nhắm loại trừ những nguy cơ mà các phương tiện truyền thông có thể gây ra chống lại điều phúc lợi của gia đình, vừa bảo đảm sao cho những phương tiện có tác động mạnh mẽ nầy được luôn là những nguồn mạch đích thực làm cho gia đình được phong phú. Những nhà truyền thông, những kẻ nắm giữ công quyền và những bậc làm cha mẹ, tất cả đều có trách nhiệm đặc biệt trong lãnh vực nầy.
Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI đã lưu ý rằng những nhà truyền thông chuyên nghiệp nên “biết và tôn trọng những nhu cầu của gia đình, và điều nầy đôi khi đòi buộc các nhà truyền thông phải có lòng can đảm đích thật, và luôn luôn phải có ý thức trách nhiệm cao độ” (trích Sứ Ðiệp Ngày Quốc Tế Truyền Thông 1969). Thật không dễ để chống lại những áp lực thương mại hoặc chống lại những yêu cầu chiều theo những ý thức hệ trần tục; nhưng đó lại là điều mà những nhà truyền thông có trách nhiệm cần phải làm. Trách nhiệm thật là cao cả, bởi vì mỗi tấn công vào giá trị căn bản của gia đình là tấn công vào điều thiện hảo đích thực của nhân loại.
Những kẻ nắm giữ công quyền có một bổn phận nghiêm trọng phải ủng hộ hôn nhân và gia đình để mưu cầu điều tốt đẹp cho xã hội. Nhưng thay vì làm như thế, thì nhiều người ngày nay lại chấp nhận và hành động dựa trên những lý lẽ phóng khoáng không nền tảng của những nhóm người cổ võ những đường lối thực hành góp phần vào hiện tượng đáng quan ngại của sự khủng hoảng gia đình và làm yếu đi quan niệm đúng về gia đình. Không cần phải dùng đến phương thế kiểm duyệt, nhưng những kẻ nắm giữ công quyền cần phải đặt ra những quy định và những thể thức hướng dẫn, để bảo đảm sao cho những phương tiện truyền thông xã hội không chống lại những giá trị tốt của gia đình. Những đại diện cho các gia đình nên tham dự vào việc soạn ra những quy định và thể thức nầy.”
Những kẻ có trách nhiệm đề ra chính sách trong lãnh vực các phương tiện truyền thông xã hội cũng như trong lãnh vực công cộng cũng phải có trách nhiệm thực hiện một sự phân phối công bằng những phương tiện truyền thông xã hội trên bình diện quốc gia và quốc tế, vừa vẫn tôn trọng sự toàn vẹn của những nền văn hóa truyền thống. Các phương tiện truyền thông không nên thể hiện một đường lối nghịch lại với những giá trị vững chắc của gia đình có mặt trong các nền văn hóa truyền thống, cũng không nên nhắm đến mục tiêu thay thế những giá trị tốt nầy bằng những giá trị trần tục của một xã hội tiêu thụ, dựa theo diễn tiến của hiện tượng toàn cầu hóa.
5. Như là những nhà giáo dục chính yếu và quan trọng nhất đối với con cái, các bậc làm cha làm mẹ cũng là những người đầu tiên dạy dỗ chúng về truyền thông. Các bậc phụ huynh được kêu gọi để huấn luyện con cái về “việc sử dụng truyền thông một cách điều độ, có phán đoán, theo dõi và thận trọng” tại nhà (Tông thư Familiaris Consortio, 76). Khi cha mẹ thực hiện điều này một cách cương quyết và tốt đẹp, đời sống gia đình sẽ được phong phú rất nhiều. Ngay cả trẻ em còn rất nhỏ có thể được dạy dỗ về những bài học quan trọng về truyền thông. Ðó là truyền thông được sản xuất bởi những người tha Thiết muốn thông chuyển các sứ điệp; đó là truyền thông thường là những sứ điệp khiến phải làm điều gì – mua một sản phẩm, có hành vi mập mờ – không đem lại lợi ích tốt nhất cho trẻ em hoặc phù hợp với sự thật luân lý; đó là trẻ em không nên chấp nhận thiếu sự phán đoán hay bắt chước điều chúng thấy trên các phương tiện truyền thông.
Những bậc làm cha mẹ cũng cần qui định việc sử dụng những phương tiện truyền thông trong gia đình. Ðiều nầy có nghĩa là xếp đặt và đề ra chương trình khi nào nên dùng các phương tiện nầy, là giới hạn chặt chẽ thời gian bao lâu các con cái được sử dụng các phương tiện nầy, là làm cho việc giải trí nhờ qua các phương tiện truyền thông trở thành một sinh hoạt chung của gia đình, là đặt vài phương tiện truyền thông ra ngoài phạm vi sử dụng của con cái, và theo định kỳ đặt ra thời hạn hoàn toàn không sử dụng các phương tiện truyền thông để có thời gian cho những sinh hoạt khác của gia đình. Trên hết mọi sự, những bậc làm cha mẹ nên nêu gương tốt cho con cái qua việc chính họ cũng thận trọng và biết phân biệt chọn lựa trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội. Nhiều khi những bậc làm cha mẹ sẽ thấy hữu ích việc tham dự với các gia đình khác để học hỏi và thảo luận về những vấn đề cũng như những dịp tốt trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông. Các gia đình nên nói lên rõ ràng cho các nhà sản xuất, những kẻ quảng cáo và những người nắm giữ công quyền biết rõ điều gì họ thích, điều gì họ không thích.
6. Truyền thông xã hội có một tiềm năng tích cực khổng lồ trong việc cổ võ các giá trị nhân bản và gia đình đúng đắn và như thế góp phần vào việc canh tân xã hội. Xét theo sức mạnh to lớn của truyền thông trong việc uốn nắn ý tưởng và ảnh hưởng hành vi, những người làm truyền thông chuyên nghiệp nên nhận ra họ có một trách nhiệm luân lý không chỉ đem lại cho các gia đình mọi sự khuyến khích, giúp đỡ và ủng hộ có thể, nhưng cũng còn thực hành sự khôn ngoan, óc phán đoán tốt và không thiên vị trong việc trình bày các vấn đề liên quan đến tính dục, hôn nhân và đời sống gia đình.
Vatican, 24 Tháng Giêng 2004,
GIOAN PHAOLÔ II
SỨ ĐIỆP ĐTC CHO NGÀY TRUYỀN THÔNG THẾ GIỚI LẦN THỨ 39
NĂM 2005
“Các Phương Tiện Truyền Thông Đại Chúng là để Giúp Cho Con Người Hiểu Biết Nhau”
Anh Chị Em Thân Mến,
1. Ở Bức Thư của Thánh Giacôbê, chúng ta đọc thấy rằng: “Từ cùng một miệng lưỡi phát xuất ra cả những gì là chúc phúc và nguyền rủa. Hỡi anh chị em đừng có làm như thế” (3:10). Thánh Kinh đã nhắc nhở chúng ta rằng lời nói có một khả năng phi thường trong việc mang con người lại với nhau hay phân rẽ họ, tạo nên những mối liên hệ thân tình hay khêu lên thù hận.
Điều này chẳng những đúng với những lời của người này nói với người khác, nó còn áp dụng cho cả vấn đề truyền thông ở mọi cấp độ nữa. Kỹ thuật tân tiến chúng ta đang có trong tay cho chúng ta những cơ hội chưa từng có để hành thiện, để loan truyền sự thật cứu độ nơi Chúa Giêsu Kitô cũng như để cổ võ sự hòa hợp và hòa giải. Tuy nhiên, việc lạm dụng nó cũng có thể gây tai hại khôn xiết kể, làm phát sinh tình trạng hiểu lầm, thành kiến và thậm chí xung đột. Đề tài được chọn cho Ngày Truyền Thông Thế Giới 2005, “Các Phương Tiện Truyền Thông Đại Chúng là để Giúp Cho Con Người Hiểu Biết Nhau”, nói lên cho thấy một nhu cầu khẩn trương đó là việc cổ võ mối hiệp nhất gia đình nhân loại bằng việc sử dụng những nguồn phương liệu rất hay này.
2. Đường lối quan trọng duy nhất để đạt được mục đích này đó là bằng việc giáo dục. Truyền thông có thể dạy cho cả tỉ người biết về các phần đất khác trên thế giới cũng như các thứ văn hóa khác. Họ có lý để được gọi là “Những Công Đường tiên khởi của thời đại tân tiến… đối với nhiều phương tiện thông tin và giáo dục, hướng dẫn và khơi động hành vi cử chỉ của họ như là thành phần cá nhân con người, gia đình và chung xã hội” (Thông Điệp Redemptoris Missio, 37). Việc hiểu biết xác đáng là những gì cổ võ nỗi cảm thông, đánh tan thành kiến và khơi động ước muốn học biết thêm. Đặc biệt là các thứ hình ảnh có khả năng chuyên chở những ấn tượng sâu xa và tác tạo nên những thái độ. Chúng dạy cho con người cách quan niệm về những phần tử thuộc các nhóm khác cũng như thuộc các quốc gia khác, gây ảnh hưởng một cách tinh vi đến nỗi những nhóm ấy hay các quốc gia ấy được coi như là bạn hữu hay thù địch, đồng minh hay có thể là đối phương.
Khi những người khác được vẽ vời bằng những từ ngữ hận thù thì các mầm mống xung khắc đã được gieo vãi có thể rất dễ dàng đi đến chỗ bạo lực, chiến tranh, thậm chí diệt chủng. Thay vì xây dựng mối hiệp nhất và cảm thông thì truyền thông có thể được sử dụng để biến những nhóm xã hội, sắc tộc và tôn giáo khác thành quỉ ma, làm dậy lên men sợ hãi và hận thù. Những ai có trách nhiệm về kiểu cách và nội dung của những gì được truyền đạt có trách nhiệm nặng nề trong việc bảo đảm không để cho điều ấy xẩy ra. Thật vậy, truyền thông có một khả năng khủng khiếp trong việc cổ võ hòa bình và dựng xây những chiếc cầu nối giữa các dân tộc, phá đổ cái vòng tử vong của bạo lực, nổi loạn, cùng với thứ bạo động mới đang quá lan tràn ngày nay. Theo lời của Thánh Phaolô, những lời làm nên cơ bản cho Sứ Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới năm nay: “Đừng để chế ngự bởi sự dữ nhưng hay chế ngự sự dữ bằng sự lành” (Rm 12:21).
3. Nếu việc đóng góp vào vấn đề xây dựng như thế là một trong những cách thức đáng kể thì truyền thông mới có thể mang con người lại với nhau, ảnh hưởng của nó mới có thể giúp vào việc động viên nhanh chóng trong vấn đề cứu trợ để đáp ứng các thiên tai. Thật là khích lệ khi thấy nhanh chóng biết bao cộng đồng quốc tế đã đáp ứng trước cơn biển động sóng thần mới đây đã làm thiệt hại cho vô số nạn nhân. Tốc độ mà tín liệu ngày nay di chuyển dĩ nhiên làm tăng thêm khả năng sử dụng những đường lối cụ thể đúng lúc để cống hiến việc trợ giúp cho đến mức tối đa. Như thế, truyền thông có thể đạt được một mức độ thiện ích khổng lồ.
4. Công Đồng Chung Vatican II đã nhắc nhở chúng ta rằng: “Nếu muốn truyền thông được sử dụng một cách xác đáng, thì tất cả mọi người sử dụng chúng cần phải biết những nguyên tắc về phương diện luân lý và trung thành áp dụng chúng” (“Inter Mirifica,” 4). Nguyên tắc về luân thường đạo lý nồng cốt đó là: “Con người và cộng đồng con người là đích điểm và là thẩm lượng của vấn đề sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng; truyền thông cần phải thực hiện bởi con người cho con người vì việc phát triển toàn vẹn con người” (“Ethics in Communications”, 21). Bởi vậy, trước hết, chính các nhà truyền thông cần phải mang ra thực hành nơi đời sống của mình các giá trị và thái độ họ được kêu gọi để truyền đạt cho người khác. Đặc biệt là điều này cần phải có một cuộc dấn thân thực sự cho công ích, một sự thiện không được hạn chế vào những lợi lộc hẹp hòi của một nhóm nào hay của một quốc gia nào mà là bao gồm các nhu cầu cùng lợi lộc của tất cả mọi người, sự thiện của toàn thể gia đình nhân loại (x “Pacem in Terris”, 132). Các nhà truyền thông có cơ hội để cổ võ một thứ văn hóa sự sống đích thực, bằng việc tách mình khỏi mưu đồ chống lại sự sống ngày nay (x “Evangelium Vitae”, 17) và chuyên chở sự thật về giá trị và phẩm vị của hết mọi con người.
5. Mô phạm và kiểu mẫu của tất cả vấn đề truyền thông được thấy nơi chính Lời Chúa. “Bằng nhiều cách thức khác nhau, xưa kia Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta qua các vị tiên tri; thế nhưng, trong những ngày cuối cùng này, Ngài đã nói với chúng ta nơi Người Con” (Heb 1:1). Lời Nhập Thể đã thiết lập một giao ước mới giữa Thiên Chúa và dân của Ngài, một giao ước cũng liên kết chúng ta thành một cộng đồng với nhau. “Vì Người là hòa bình của chúng ta, Đấng đã làm cho hai chúng ta thành một và đã phá đổ bức tường hận thù ngăn cách” (Eph 2:14).
Trong Ngày Thế Giới Truyền Thông năm nay tôi cầu xin để con người nam nữ đi làm truyền thông đóng vai trò của mình trong việc phá đổ các bức tường hận thù chia rẽ trên thế giới của chúng ta, những bức tường phân rẽ các dân tộc và các quốc gia, những bức tường của hiểu lầm và ngờ vực lẫn nhau. Chớ gì họ sử dụng những phương tiện trong tầm tay của họ để củng cố những liên hệ thân hữu và yêu thương là dấu chỉ rõ ràng cho sự phát triển của Vương Quốc Thiên Chúa trên trái đất này.
Tại Vatican ngày 24/1/2005, Lễ Thánh Phanxicô Salêsiô
Gioan Phaolô II
________________________
SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI
CHO NGÀY TRUYỀN THÔNG THẾ GIỚI LẦN THỨ 40
NĂM 2006
“Các phương tiện truyền thông: Một mạng lưới cho giao tiếp, hiệp thông và hợp tác”
Anh chị em thân mến.
1. Nhân dịp kỷ niệm 40 năm bế mạc Công Đồng Vatican II, tôi vui mừng nhắc lại Sắc Lệnh Inter Mirifica của Công Đồng về Các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội, trong đó đặc biệt nhìn nhận sức mạnh ảnh hưởng trên toàn xã hội nhân loại của các phương tiện truyền thông. Nhu cầu uốn nắn sức mạnh này vì lợi ích của toàn nhân loại đã thúc đẩy tôi, trong sứ điệp Ngày Truyền Thông Thế Giới đầu tiên của mình, suy tư ngắn gọn về ý tưởng các phương tiện truyền thông như một mạng lưới cho giao tiếp, hiệp thông và hợp tác.
Thánh Phaolô, trong thư gởi giáo đoàn Êphêsô, mạnh mẽ mô tả ơn gọi của con người là trở nên “những người thông phần trong thiên tính” (Dei Verbum, 2): qua Đức Kitô chúng ta chia sẻ trong cùng một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha; vì thế chúng ta không còn là khách lạ hay ngoại kiều nhưng là những công dân như các thánh và các thành viên khác trong nhà Thiên Chúa, sống thăng tiến trong thánh điện, nơi ngự trị của Thiên Chúa (x. Ep 2:18-22). Bức tranh hướng thượng về một cuộc sống hiệp thông này bao gồm tất cả những khía cạnh của đời sống chúng ta như những Kitô hữu. Lời mời gọi trở nên chân thật như sự truyền thông của Thiên Chúa trong Đức Kitô thực ra là lời mời gọi chúng ta nhận ra lực năng động của Ngài trong ta, để rồi tìm cách tỏa ra bên ngoài cho tha nhân, để tình yêu của Ngài thực sự trở thành thước đo thịnh hành của thế giới (x. Bài Giảng Ngày Quốc Tế Giới Trẻ tại Köln, 21/8/2005).
2. Trong những khía cạnh nhất định, những tiến bộ kỹ thuật trong ngành truyền thông đã chinh phục được thời gian và không gian, làm cho việc giao tiếp giữa con người với nhau, dù xa xôi vạn dặm, trở nên vừa tức thời vừa trực tiếp. Sự phát triển này cho thấy một tiềm năng lớn lao cho sự phục vụ thiện ích chung và “hình thành một gia sản để bảo vệ và thăng tiến” (Sự phát triển nhanh chóng, 10). Tuy nhiên, như tất cả chúng ta đều biết, thế giới chúng ta còn xa mới đến mức thiện toàn. Hàng ngày, chúng ta được nhắc nhở rằng tính tức thời của các phương tiện truyền thông không nhất thiết xây đắp nên sự hợp tác và hiệp thông trong xã hội.
Gây ý thức cho các cá nhân và giúp hình thành suy nghĩ của họ không bao giờ là một công việc có tính trung lập. Truyền thông chân thật đòi hỏi đức can đảm và quyết tâm có tính nguyên tắc. Nó đòi hỏi những ai hoạt động trong ngành truyền thông một ý chí không khuất phục dưới gánh nặng của quá nhiều thông tin, cũng như không được hài lòng cả với những sự thật nửa vời hay có chọn lọc. Thay vào đó, cần thiết là phải tìm kiếm và truyền đi những gì là tối căn bản và là ý nghĩa của sự hiện hữu nhân loại, cá nhân và xã hội (x. Fides et Ratio – Đức Tin và Lý Trí – số 5). Bằng cách này các phương tiện truyền thông có thể đóng góp một cách xây dựng vào sự truyền bá những gì là thiện hảo và chân thật.
3. Lời mời gọi cho các phương tiện truyền thông hiện nay là phải có lòng trách nhiệm – phải trở nên nhân vật chính của sự thật và người thăng tiến hòa bình, một điều chắc chắn đi kèm với một số thách đố. Trong khi những khí cụ đa dạng của truyền thông xã hội đem đến thuận lợi cho sự trao đổi thông tin, ý nghĩ và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nhóm, những khí cụ này cũng nhuốm mầu mơ hồ. Cùng với việc đem lại “một bàn tròn đối thoại rộng lớn”, một vài khuynh hướng nhất định trong giới truyền thông lại tạo ra một thứ văn hóa đơn điệu làm lu mờ những tài năng sáng tạo, giản lược tính tế nhị của tư duy phức hợp, và hạ giá tính chuyên biệt của các thực hành văn hóa, cũng như nét đặc biệt của niềm tin tôn giáo. Đó là những bóp méo xảy ra khi kỹ nghệ truyền thông trở thành phục vụ cho chính mình hay do lợi nhuận lèo lái hoàn toàn, đánh mất đi ý thức về nghĩa vụ đối với thiện ích chung.
Việc tường trình chính xác các biến cố, đưa ra giải thích đầy đủ về những vấn đề công luận quan tâm đến, và trình bày công bình những quan điểm khác nhau luôn luôn phải được nuôi dưỡng. Nhu cầu đề cao và nâng đỡ hôn nhân và cuộc sống gia đình là đặc biệt quan trọng, chính vì gia đình là phần căn bản của mọi nền văn hóa và xã hội (x. Apostolicam Actuositatem, 11). Các phương tiện truyền thông xã hội và các kỹ nghệ giải trí có thể hợp tác với các bậc cha mẹ bằng cách giúp đỡ cho một ơn gọi, tuy khó khăn nhưng đem lại niềm vui hướng thượng, là ơn gọi dưỡng dục trẻ em, qua việc trình bày những kiểu mẫu có tính giáo dục về cuộc sống nhân bản và tình yêu (x. Inter Mirifica, 11). Thật là đau lòng và thảm hại biết bao cho chúng ta khi chiều ngược lại xảy ra. Lòng chúng ta không thổn thức xót xa sao, nhất là trước tình cảnh những người trẻ của chúng ta trở thành đối tượng của những diễn đạt sa đọa hay sai lầm về tình yêu, những diễn đạt chế diễu phẩm giá Thiên Chúa đã ban cho mỗi người, và xói mòn lợi ích của gia đình?
4. Để khích lệ cả sự trình bày chân thực lẫn một sự tiếp nhận tích cực các phương tiện truyền thông trong xã hội, tôi muốn lặp lại tầm quan trọng của ba bước, đã được vị tiền nhiệm của tôi là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II xác định là cần thiết cho sự phục vụ lợi ích chung: đó là đào tạo, dự phần và đối thoại (x. Sự Phát Triển Nhanh Chóng, 11).
Đào tạo trong việc sử dụng có trách nhiệm và cẩn trọng các phương tiện truyền thông giúp con người dùng chúng cách thông minh và thích đáng. Ảnh hưởng sâu sắc trên tâm trí về những từ vựng mới và những hình ảnh mà các phương tiện truyền thông điện tử cách riêng dễ dàng đưa vào xã hội không thể bị đánh giá quá mức. Chính vì các phương tiện truyền thông đương đại hình thành nền văn hóa bình dân, chính chúng phải tự vượt qua mọi cám dỗ lũng đoạn con người, đặc biệt những người trẻ, và thay vào đó phải theo đuổi ước muốn đào tạo và phục vụ. Bằng cách này, chúng bảo vệ hơn là xói mòn cơ cấu của một xã hội dân sự xứng đáng cho nhân loại.
Dự phần vào các phương tiện truyền thông đại chúng nảy sinh từ bản chất muốn đem lại điều thiện cho mọi người của các phương tiện truyền thông. Như là một dịch vụ xã hội, truyền thông xã hội cần một tinh thần hợp tác và đồng nghĩa vụ với ý thức trách nhiệm mạnh mẽ về việc sử dụng các tài nguyên chung và về hành vi của các vai trò được công chúng ủy thác (x. Đạo Đức trong Truyền Thông. 20), bao gồm sự uốn nắn cho phù hợp các tiêu chuẩn quy định và các biện pháp pháp hay là những cấu trúc được thiết kế để chi phối mục tiêu này.
Cuối cùng, sự đề cao đối thoại qua việc trao đổi nhận thức, qua diễn đạt về tình liên đới và sự ủng hộ hòa bình, đối với các phương tiện truyền thông đại chúng là một cơ hội lớn lao cần phải được nhìn nhận và thực thi. Qua đó, các phương tiện truyền thông trở nên những tài nguyên có ảnh hưởng và được đánh giá cao trong việc kiến tạo nền văn minh tình thương mà mọi người khao khát.
Tôi tin tưởng rằng những nỗ lực nghiêm chỉnh để đề cao ba bước này sẽ giúp các phương tiện truyền thông phát triển tốt đẹp như một mạng lưới giao tiếp, hiệp thông và hợp tác, giúp những người nam nữ và trẻ em trở nên ý thức hơn về phẩm giá con người, có tinh thần trách nhiệm hơn, và cởi mở hơn với tha nhân, đặc biệt với những ai túng quẫn và các thành viên yếu thế nhất trong xã hội (x. Thông Điệp Đấng Cứu Độ Con Người, 15; Đạo Đức Trong Truyền Thông, 4).
Để kết luận, tôi trở lại với những lời đầy khích lệ của Thánh Phaolô: Chúa Kitô là hòa bình của chúng ta. Trong Ngài, chúng ta nên một (x. Thơ Êphêsô 2:14). Cùng nhau, chúng ta hãy xô đổ những bức tường ngăn cách của thù hận và xây đắp sự hiệp thông của yêu thương theo những ý định của Đấng Tạo Hóa được mạc khải qua Con Ngài!
Từ Điện Vatican, ngày 24.01.2006, Lễ Kính Thánh Phanxicô Đệ Salê.
+ Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI
SỨ ĐIỆP NGÀY TRUYỀN THÔNG LẦN THỨ 41
NĂM 2007
Chủ đề: “Trẻ em và Truyền Thông: Một Thách Đố cho Giáo Dục”
Anh chị em thân mến,
1. Chủ đề của ngày Thế Giới Truyền Thông lần thứ 41, “Trẻ em và Truyền Thông: Một Thách Đố cho Giáo Dục” mời gọi chúng ta suy tư về hai đề tài có liên quan với nhau và có một tầm quan trọng rộng lớn. Trước hết là sự hình thành của trẻ em. Thứ hai, có lẽ kém hiển nhiên hơn, nhưng không kém quan trọng, là sự định hình của các phương tiện truyền thông.
Những thách đố phức hợp giáo dục ngày nay phải đối diện thường được liên kết với ảnh hưởng bao trùm của các phương tiện truyền thông trong thế giới chúng ta. Là một khía cạnh của hiện tượng toàn cầu hóa, và được hưởng thuận lợi từ sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật, các phương tiện truyền thông định hướng sâu sắc môi trường văn hóa (x. Tông Thư Sự Phát Triển Nhanh Chóng của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, 3). Thật vậy, nhiều người cho rằng những ảnh hưởng có tính cách định hình của các phương tiện truyền thông mạnh mẽ hơn của trường học, của Giáo Hội, và ngay cả của gia đình. “Thực tại, đối với nhiều người, là những gì truyền thông cho là thật” (Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội, Aetatis Novae, 4).
2. Quan hệ giữa trẻ em, các phương tiện truyền thông, và giáo dục có thể được xem xét dưới hai khía cạnh: sự hình thành của trẻ em bởi các phương tiện truyền thông; và sự đào tạo trẻ em nhằm đáp trả thích hợp với các phương tiện truyền thông. Một hình thức tương tác xuất hiện ở đây hướng đến những trách nhiệm của các phương tiện truyền thông như một kỹ nghệ; và đến nhu cầu cho sự dự phần tích cực và có phê phán của những độc giả, khán giả và thính giả. Trong khuôn khổ này, việc huấn luyện sử dụng các phương tiện truyền thông thích hợp là cần thiết cho sự phát triển về văn hóa, đạo đức và tinh thần của trẻ em.
Làm sao để thiện ích chung này được bảo vệ và đề cao? Giáo dục trẻ em trở nên biết phân biệt khi dùng các phương tiện truyền thông là một trách nhiệm của các bậc cha mẹ, Giáo Hội và nhà trường. Vai trò của cha mẹ là quan yếu nhất. Họ có quyền và nghĩa vụ bảo đảm việc sử dụng thận trọng các phương tiện truyền thông bằng cách huấn luyện ý thức của trẻ em để bày tỏ các phán đoán đúng và khách quan là những điều giúp chúng lựa chọn hay từ chối những chương trình sẵn có ( x. Tông Huấn Familiaris Consortio của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, 76). Để làm điều này, các bậc cha mẹ đáng được khích lệ và trợ giúp từ các trường học và giáo xứ để bảo đảm rằng khía cạnh phụ đạo khó khăn nhưng đáng hài lòng này được nâng đỡ bởi một cộng đoàn rộng lớn hơn.
Các phương tiện truyền thông giáo dục cần phải là tích cực. Khi được tiếp cận với những gì thật đẹp đẽ và đạo đức, trẻ em được trợ giúp để phát triển khả năng đánh giá, sự thận trọng và những năng khiếu về nhận thức. Ở đây, điều quan trọng là chúng ta cần nhận ra giá trị căn bản của mẫu gương của bậc cha mẹ và những lợi ích khi giới thiệu với các thiếu nhi những tác phẩm văn học cổ điển, những hình thức nghệ thuật tốt đẹp, và âm nhạc có tính cách hướng thượng. Trong khi văn chương bình dân luôn có chỗ đứng của nó trong văn hóa, cám dỗ thêm mắm dặm muối vào không thể được chấp nhận cách thụ động trong các học đường. Thẩm mỹ, một hình thức phản ánh Thiên Chúa, linh hứng và làm sống động con tim và tâm trí những người trẻ, trong khi sự xấu xí và thô tục có một tác động gây chán nản trên thái độ và hành vi.
Giáo dục nói chung và giáo dục truyền thông nói riêng đòi hỏi việc huấn luyện trẻ em sử dụng tự do của chúng. Đây là một nghĩa vụ cam go. Quá thường khi tự do được trình bày như một cuộc truy tìm không ngừng những lạc thú và những kinh nghiệm mới. Nhưng đây là một gông cùm chứ không phải là tự do! Tự do đích thật không bao giờ xiềng xích cá nhân – đặc biệt là một trẻ em – vào một cuộc truy tìm cái mới không bao giờ thỏa mãn. Trong ánh sáng chân lý, tự do đích thật được cảm nhận như một đáp trả dứt khoát lời mọi gọi nói tiếng xin vâng mà Thiên Chúa đưa ra cho nhân loại, khi Ngài mời gọi chúng ta lựa chọn không phải một cách chung chung nhưng một cách cố ý những gì là thiện hảo, chân thật và đẹp đẽ. Các bậc cha mẹ, khi đó, như những người bảo vệ tự do, khi trao ban dần cho con trẻ nhiều tự do hơn sẽ giới thiệu với chúng niềm vui sâu xa của cuộc sống (x. Diễn văn cho Đại Hội Gia Đình Thế Giới lần thứ 5 tại Valencia, 8/7/2006).
3. Mong ước chân thành của các bậc cha mẹ và các thầy cô giáo muốn giáo dục trẻ em trong những nẻo đường chân thiện mỹ chỉ có thể được nâng đỡ bởi kỹ nghệ truyền thông nếu nó đề cao phẩm giá căn bản của con người, giá trị đích thực của hôn nhân và đời sống gia đình, những thành quả và mục tiêu tích cực của nhân loại. Vì thế, không chỉ các bậc cha mẹ và các thầy cô giáo mà cả những ai có ý thức trách nhiệm dân sự cũng thấy một nhu cầu đặc biệt có ích và thậm chí cấp bách là truyền thông phải gắn bó với việc đào tạo có hiệu quả, và với những tiêu chuẩn đạo đức.
Trong khi khẳng định tin tưởng cho rằng đa số những người dự phần vào truyền thông xã hội muốn làm điều đúng đắn (x Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội, Đạo Đức trong Truyền Thông, 4), chúng ta cũng phải nhận rằng những ai hoạt động trong lãnh vực này phải đương đầu với “những áp lực tâm lý và những tình huống luân lý khó xử” (Aetatis Novae, 19) mà đôi khi cho thấy sự cạnh tranh thương mại buộc các nhà truyền thông hạ giảm các tiêu chuẩn. Bất cứ khuynh hướng sản xuất những chương trình và những sản phẩm – bao gồm những phim hoạt họa và những trò chơi băng hình – nhân danh giải trí để đề cao bạo lực và mô tả những hành vi chống xã hội hay sự tầm thường hóa tính dục con người đều là một sự thối tha, và càng đáng nguyền rủa hơn hết khi những chương trình này nhắm vào thanh thiếu niên. Làm sao ta có thể giải thích cái thứ “giải trí” này với cơ man những người trẻ vô tội phải thật sự gánh chịu bạo lực, khai thác và lạm dụng? Về phương diện này tất cả cần suy tư kỹ lưỡng về sự tương phản giữa Đức Kitô Đấng “ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng” (Mc 10:16) và kẻ “nên cớ vấp ngã… cho những trẻ này” vì với kẻ đó “thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho nó” (Lc 17:2). Lần nữa tôi kêu gọi các nhà lãnh đạo của kỹ nghệ truyền thông hãy giáo dục và khích lệ các nhà sản xuất bảo vệ thiện ích chung này, đề cao sự thật, bảo vệ phẩm giá cá nhân, và đề cao những nhu cầu của gia đình.
4. Chính Giáo Hội, trong ánh sáng của thông điệp cứu độ được ủy thác cho mình, cũng là thầy dạy của nhân loại và hoan nghênh cơ hội đưa ra sự trợ giúp cho các bậc cha mẹ, các nhà giáo dục, các nhà truyền thông, và thanh niên. Ngày nay, giáo xứ và trường học của Giáo Hội cần phải trên tuyến đầu của giáo dục truyền thông. Trên tất cả, Giáo Hội ao ước chia sẻ một viễn kiến về phẩm giá nhân loại là trọng tâm của mọi truyền thông xứng đáng của loài người “Khi nhìn với đôi mắt của Chúa Kitô, tôi có thể trao cho tha nhân nhiều hơn những nhu cầu bề ngoài của họ; tôi có thể trao cho họ ánh mắt yêu thương mà họ thèm khát”. (Thông Điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, 18).
Từ Vatican, 24 tháng Giêng 2007, Lễ Thánh Phanxicô Salêsiô
+ BÊNÊĐICTÔ PP. XVI
_____________________________________
SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI
NĂM 2008
NHÂN NGÀY THẾ GIỚI TRUYỀN THÔNG LẦN THỨ 42
“Phương tiện truyền thông: trước hai lựa chọn tự tôn phong hay phục vụ. Tìm kiếm Sự Thật để chia sẻ với người khác”.
Anh chị em thân mến,
1. Chủ đề của Ngày Thế Giới Truyền Thông năm nay- “Phương tiện truyền thông trước hai lựa chọn tự tôn phong hay phục vụ. Tìm kiếm Sự Thật để chia sẻ với người khác.”- soi sáng cho vai trò quan trọng của các phương tiện truyền thông trong đời sống cá nhân cũng như xã hội. Thật vậy, không có một linh vực nào trong kinh nghiệm của con người, đặc biệt trước hiện tượng toàn cầu hóa đang mở rộng, mà trong đó truyền thông lại không nắm giữ một vai trò bao quát trong các mối tương quan liên vị cũng như trong sự phát triển về xã hội, kinh tế, chính trị và tôn giáo. Như tôi đã trình bày trong Sứ Điệp Ngày Thế Giới Hòa Bình đầu năm (1 tháng Giêng 2008): “Các phương tiện truyền thông xã hội, vì tiềm năng giáo dục đặc thù của nó, giữ một trách nhiệm đặc chuyên trong việc phát huy sự tôn trọng gia đình, làm sáng tỏ những nguyện vọng và các quyền của gia đình, cũng như trình bày tất cả vẻ đẹp của nó” (s. 5).
2. Nhờ tiến bộ mau chóng về kỹ thuật, các phương tiện truyền thông đã thủ đắc được những tiềm lực phi thường, nhưng cũng đặt ra biết bao vấn đề mới lạ, những vấn nạn chưa từng có trước đây. Người ta không thể phủ nhận những đóng góp của nó trong việc phổ biến tin tức, truyền đạt những kiến thức về các biến cố cũng như việc phổ cập thông tin: nó nắm giữ một vai trò quyết định, thí dụ như trong việc phổ biến văn hóa và trong tiến trình xã hội hóa, cũng như trong việc phát triển nền dân chủ và đối thoại giữa các dân tộc. Không có những đóng góp của truyền thông thật khó mà mở mang và củng cố sự thông hiểu giữa các quốc gia, khó thổi hơi vào các cuộc đối thoại mang tính toàn cầu, khó bảo đảm lợi ích ưu hảo của việc cập nhật thông tin, mà đồng thời vẫn bảo đảm quyền tự do trao đổi tư tưởng, nhất là cổ vũ các lí tưởng về tình liên đới và công bình xã hội. Quả thật, nhìn một cách bao quát, các phương tiện truyền thông không chỉ là những phương tiện để truyền đạt tư tưởng, mà còn có thể và phải trở thành những khí cụ để phục vụ thế giới được công bằng và liên đới hơn. Nhưng thật đáng buồn, các phương tiện truyền thông đang bị biến thành những hệ thống nhắm vào việc bắt người ta phải lệ thuộc các chương trình đặt ra vì chủ đích lợi nhuận. Điều này xảy ra khi truyền thông bị lạm dụng vào các mục tiêu tuyên truyền ý thức hệ hoặc quảng cáo việc tiêu thụ sản phẩm gây ra bực bội. Mệnh danh là trình bày thực tế, người ta có thể hợp pháp hóa hay áp đặt những kiểu mẫu lệch lạc về đời sống cá nhân, gia đình và xã hội. Hơn nữa, để thu hút và gia tăng khán thính giả, đôi khi người ta không ngần ngại đi trệch hướng để đưa vào những cái tầm thường và bạo lực. Truyền thông cũng có thể trình bày và hỗ trợ các mô hình phát triển, giúp thăng tiến hơn là chế giảm trình độ kỹ thuật giữa các nước giàu và nước nghèo.
3. Nhân loại ngày hôm nay đang đứng trước một giao lộ. Người ta có thể áp dụng đúng mức cho truyền thông những điều tôi đã trình bày trong Thông điệp Spe Salvi liên quan đến tính hàm hồ của sự tiến bộ, một mặt nó tạo ra nhiều khả năng mới mẻ để thực hiện điều thiện, nhưng đồng thời nó cũng mở ra những tiềm lực kinh khủng phát sinh sự ác chưa hề tồn tại trước đây (x. Số 22). Bởi đó, chúng ta phải truy vấn xem có khôn ngoan không khi để cho các phương tiện truyền thông bị khai thác bừa bãi vào việc “ tự phát triển”, và rốt cuộc lại rơi vào tay những kẻ dụng tâm lèo lái lương tâm con người. Thay vào đó, sao người ta không ưu tiên bảo đảm cho nó luôn phục vụ con người và thiện ích chung cũng như vun trồng “việc đào tạo luân lí cho con người…giúp con người phát triển tâm hồn” (ibid.)? Người ta đều nhìn nhận ảnh hưởng lớn lao của các phương tiện truyền thông trên đời sống cá nhân cũng như xã hội, tuy nhiên ngày hôm nay cần phải nhấn mạnh đến bước ngoặt triệt để, hoặc như người ta có thể nói, sự biến thái hoàn toàn nó đang tạo ra. Hôm nay, truyền thông dường như vẫn không chỉ đòi hỏi trình bày thực tại mà còn xác định thực tại nhờ đặc quyền và sức mạnh dẫn dụ nó nắm giữ. Chẳng hạn, rõ ràng là trong một tình hình người ta không sử dụng truyền thông vào mục đích chính đáng là phổ biến thông tin, mà còn “tạo ra” chính các biến cố. Chuyện thay đổi chức năng gây nguy hại này đã được nhiều vị lãnh đạo Giáo Hội quan tâm chỉ vạch. Chính bởi chúng ta đang tiếp cận với những thực tại có ảnh hưởng sâu đậm trên tất cả mọi khía cạnh của đời sống (đờin lí, suy nghĩ, tôn giáo, tương quan, tình cảm, văn hóa), trong đó cái thiện của con người giao chuyển, thì cần phải nhấn mạnh rằng không phải tất cả những gì khả thi về mặt kỹ thuật đều được phép về mặt đạo đức. Do đó, ảnh hưởng của truyền thông trên đời sống hiện đại đặt ra những vấn nạn không thể tránh né, đòi phải có những lựa chọn và giải quyết không thể trì hoãn.
4. Vai trò mà các phương tiện truyền thông thủ đắc trong xã hội phải được nhìn nhận như một phần hoàn chỉnh về vấn đề con người, đang mở ra như một thách đố trọng yếu trong ngàn năm thứ ba. Giống như những gì đang xảy ra trong lãnh vực sự sống con người, hôn nhân và gia đình, trong các vấn đề trọng đại hiện nay liên quan đến hòa bình, công lí, bảo vệ môi trường, thì trong lãnh vực truyền thông xã hội những chiều kích nền tảng về con người và sự thật liên quan đến con người cũng đang nảy sinh. Khi truyền thông đánh mất trụ cột đạo đức của mình, để cho xã hội khống chế thì rốt cuộc nó không còn để ý đến trọng tâm con người, có một phẩm giá bất khả xâm phạm. Hệ quả là nó liều lĩnh tác động ảnh hưởng tiêu cực trên lương tâm của họ, trên chọn lựa của họ để cuối cùng ràng buộc tự do và chính đời sống của họ vào những điều kiện khác nhau. Chính vì vậy, truyền thông xã hội phải miệt mài bảo vệ con người và hết lòng tôn trọng phẩm giá con người. Nhiều người ngày nay cho rằng trong lãnh vực này cần phải có một nền “đạo đức truyền thông”, như đã có nền luân lí sinh học trong lãnh vực y khoa với những nghiên cứu tìm tòi liên quan đến sự sống.
5. Truyền thông phải tránh trở thành tiếng nói cổ xúy cho chủ thuyết duy vật kinh tế và chủ thuyết tương đối về đạo đức, là những vết thương thật sự trong thời đại của chúng ta. Thay vào đó, nó có thể và phải góp phần thông đạt sự thật về con người, và phải bênh vực sự thật chống lại những kẻ muốn phủ nhận hoặc loại bỏ sự thật. Người ta còn có thể xác quyết rằng truy tìm sự thật và trình bày sự thật về con người làm nên ơn gọi cao quý nhất của truyền thông xã hội. Sử dụng mọi ngôn từ cao đẹp và ý nhị vào mục đích truyền thông là một bổn phận đầy phấn khích, được trao phó trước hết cho những nhà quản lí cũng như nhà thực hiện chương trình. Tuy nhiên, đó cũng là bổn phận mà trong một mức độ nào đó, liên quan đến tất cả chúng ta, bởi vì trong thời đại toàn cầu hóa này, tất cả chúng ta đều là những người hưởng dùng và là những người thực hiện truyền thông xã hội. Các phương tiện truyền thông hiện đại- liên lạc viễn thông và đặc biệt Internet- đang biến đổi chính bộ mặt của truyền thông; và có lẽ đây là một dịp quý hóa để tái định dạng chúng, và theo lời vị tiền nhiệm đáng kính của tôi là Đức Gioan Phaolô II, để làm cho những yếu tố nền tảng và thiết yếu của sự thật về con người được hiển thị rõ nét hơn (x. Tông thư Sự Phát Triển nhanh Chóng, 10).
6. Con người khao khát sự thật, họ truy tìm sự thật; sự kiện này được minh chứng bằng việc chăm chú theo dõi những thành quả đạt được do những ấn phẩm đa dạng xuất bản, những chương trình hoặc những văn phẩm giá trị, trong đó sự thật và nét cao quý của con người, gồm cả chiều kích tôn giáo được trình bày và thu nhận một cách tốt đẹp. Chúa Giêsu nói: “Các ngươi sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng các ngươi” (Ga 8, 32). Sự thật giải phóng chúng ta là Chúa Kitô, vì chỉ Người mới có thể hoàn toàn làm dịu cơn khát về sự sống và tình yêu hiện hữu trong tâm khảm con người. Những ai đã gặp Người và hăng hái đón nhận sứ điệp của Người đều cảm nhận một sự ao ước không thể kềm hãm là phải chia sẻ và truyền thông sự thật này. Thánh Gioan viết: “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống…chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha, và với Con của Người là Đức Giêsu Kitô. Những điều này chúng tôi viết ra để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn” (1 Ga 1, 1- 3).
Chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần để có được những người làm truyền thông dũng cảm và những chứng nhân đích thực làm chứng cho sự thật, trung thành với mệnh lệnh của Chúa Kitô và nhiệt thành với sứ điệp đức tin, đó là những người biết “cắt nghĩa nhu cầu văn hóa của thời đại, dấn thân đi vào thời đại truyền thông không phải như thời khắc đầy băn khoăn bối rối, nhưng như thời điểm quý báu để tìm kiếm sự thật và phát huy tình hiệp thông giữa con người và các dân tộc” (Gioan Phaolô II, Diễn văn cho Hội Nghị của những người hoạt động Truyền thông và Văn Hóa, 9 tháng Mười Một 2002).
Qua những lời cầu chúc này tôi thân ái ban Phép Lành cho mọi người.
Từ Vatican, 24 tháng Giêng 2008, Lễ Thánh Phanxicô Salêsiô
+ BÊNÊĐICTÔ PP. XVI
_______________________________________
SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI
NĂM 2009
NHÂN NGÀY THẾ GIỚI TRUYỀN THÔNG LẦN THỨ 43
Các kỹ thuật công nghệ mới, các tương quan mới. Khuyến khích một nền văn hóa tôn trọng, đối thoại, tình bạn.
Anh chị em thân mến,
Gần đến Ngày Quốc Tế Truyền Thông Xã Hội, tôi vui mừng hướng đến anh chị em để cho anh chị em biết về một vài suy tư của tôi về chủ đề được chọn của năm nay: Các kỹ thuật công nghệ mới, các tương quan mới. Khuyến khích một nền văn hóa tôn trọng, đối thoại, tình bạn. Quả thế, các công nghệ kỹ thuật số mới quyết định những thay đổi căn bản nơi các khuôn mẫu giao tiếp và nơi các tương quan nhân loại. Những thay đổi này đặc biệt rõ ràng nơi giới trẻ mà sự trưởng thành của nó liên hệ chặt chẽ với những công nghệ kỹ thuật truyền thông này. Bởi thế, họ cảm thấy thoải mái trong thế giới kỹ thuật số mà, trái lại, thường dường như xa lạ với một số người trong chúng ta, những người lớn trưởng thành, đã phải học hiểu biết và đánh giá những cơ hội mà thế giới kỹ thuật số này mang lại cho chúng ta trong việc truyền thông. Trong sứ điệp của năm nay, tôi đặc biệt nghĩ đến những người thuộc về thế hệ gọi là “kỹ thuật số” này: tôi xin chia sẻ với họ một vài ý tưởng về tiềm năng phi thường của những công nghệ kỹ thuật mới khi chúng được sử dụng để tạo điều kiện cho sự hiểu biết và liên đới của con người. Những công nghệ kỹ thuật như thế là một ân huệ đích thực cho nhân loại: bởi thế, chúng ta phải làm sao để những thuận lợi mà chúng mang lại được phục vụ hết thảy mọi người và mọi cộng đồng, đặc biệt là những người nghèo túng và những người dễ bị thương tổn nhất.
Sự dễ dàng tiếp cận với điện thoại di động và máy vi tính, được nối kết ở tầm mức thế giới và sự thâm nhập của Internet, đã tạo nên rất nhiều phương tiện gởi đi cách chớp nhoáng những ngôn ngữ và hình ảnh đến những nơi xa và cô lập nhất của thế giới: một khả năng không thể hiểu được đối với các thế hệ đi trước. Đặc biệt, giới trẻ đã tiếp nhận tiềm năng lớn lao của các phương tiện truyền thông này để tạo điều kiện dễ dàng cho việc kết nối, giao tiếp và hiểu biết giữa các cá nhân và cộng đoàn và sử dụng chúng để giao tiếp với bạn bè, để gặp gỡ những người bạn mới, để tạo nên những cộng đồng và những mạng lưới, để tìm kiếm thông tin và tin tức, để chia sẻ tư tưởng và ý kiến của mình. Nhiều thuận lợi phát sinh từ nền văn hóa truyền thông mới mẻ này: các gia đình có thể giữ liên lạc cho dù chúng bị chia ly bởi những khoảng cách lớn, các sinh viên và các nhà nghiên cứu có thể tiếp cận dễ dàng và trực tiếp nhất với các tài liệu, với các nguồn và với những khám phá khoa học và do đó, có thể làm việc theo nhóm từ những nơi khác nhau; vả lại, bản chất tương tác của các phương tiện truyền thông mới tạo điều kiện dễ dàng cho những hình thức học tập và giao tiếp năng động hơn, mà đóng góp vào sự tiến bộ của xã hội.
Cho dầu tốc độ tiến triển của các công nghệ kỹ thuật mới về mặt đáng tin cậy và hiệu quả là một lý do kinh ngạc thán phục, nhưng sự phổ biến của chúng nơi những người sử dụng không nên làm cho chúng ta ngạc nhiên, vì chúng trả lời những ước muốn căn bản của con người bước vào trong tương quan giao tiếp với nhau. Ước muốn giao tiếp và tình bạn này được bén rễ sâu trong chính bản tính làm người của chúng ta và không thể được hiểu cách chính đáng chỉ như là lời đáp trả cho những đổi mới của công nghệ kỹ thuật. Dưới ánh sáng của sứ điệp Kinh Thánh, một ước muốn như thế đúng hơn phải được đọc như là phản ảnh sự tham dự của chúng ta vào tình yêu thông giao và hiệp nhất của Thiên Chúa, Đấng muốn làm cho toàn thể nhân loại thành một gia đình duy nhất. Khi chúng ta cảm thấy nhu cầu xích lại gần với người khác, khi chúng ta muốn hiểu biết họ và làm cho mình được hiểu biết tốt hơn, chúng ta đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa “một tiếng gọi gắn liền với bản tính được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa của chúng ta, vị Thiên Chúa của sự thông ban và hiệp thông.
Ước muốn kết nối và bản năng giao tiếp, mà được khẳng định như thế trong nền văn hóa đương đại, quả thật chỉ là những biểu lộ của thời hiện đại về khuynh hướng nền tảng và liên lỉ của con người muốn vươn qua bên kia chính mình để bước vào trong tương quan giao tiếp với những người khác. Trên thực tế, khi chúng ta mở mình ra cho người khác, chúng ta hoàn thành những nhu cầu sâu xa nhất của chúng ta và chúng ta trở nên nhân bản cách tròn đầy hơn. Quả thế, yêu thương là những gì mà Đấng Tạo Hóa đã chuẩn bị cho chúng ta. Dĩ nhiên, nó không hệ tại những tương quan chóng qua, giả tạo; tôi nói về tình yêu đích thực, mà nằm ở chính trung tâm của giáo huấn luân lý của Chúa Giêsu: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết tâm hồn, hết tâm trí và hết sức lực ngươi” và “Ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi” (x. Mc 12, 30-31). Dưới ánh sáng này, dù hoàn toàn suy tư về ý nghĩa của các công nghệ kỹ thuật mới, thật quan trọng để xem xét không chỉ khả năng hiển nhiên của nó trong việc tạo điều kiện dễ dàng cho mối liên lạc giữa người với người, nhưng còn phẩm chất của các nội dung mà chúng được kêu gọi đưa vào lưu hành. Tôi mong muốn khích lệ tất cả mọi người thiện chí, chủ động trong thế giới truyền thông kỹ thuật số, dấn thân thăng tiến một nền văn hóa tôn trọng, đối thoại và tình bạn.
Do đó, những ai làm việc trong lãnh vực sản xuất và phổ biến các nội dung của các phương tiện truyền thông mới không thể không cảm thấy dấn thân đối với sự tôn trọng phẩm giá và giá trị của nhân vị. Nếu các công nghệ kỹ thuật mới phải phục vụ cho thiện ích của các cá nhân và xã hội, thì những người sử dụng chúng phải tránh sự chia sẻ những lời nói và hình ảnh làm mất phẩm giá con người, và như thế loại trừ những gì đang nuôi dưỡng lòng hận thù và sự bất bao dung, những gì làm giảm giá vẻ đẹp và sự sâu kín của giới tính con người, những gì khai thác những người yếu đuối và những người dễ bị thương tổn.
Các công nghệ kỹ thuật mới do đó mở ra con đường đối thoại giữa những người của những đất nước, của các nền văn hóa và của các tôn giáo khác nhau. Vũ đài kỹ thuật số mới, tức là cái cyberespace (không gian liên kết mạng), cho phép tạo nên những cuộc gặp gỡ và hiểu biết các giá trị và các truyền thống của người khác. Tuy nhiên, để sinh hoa kết trái, những cuộc gặp gỡ như thế đòi hỏi những hình thức diễn tả lương thiện và đúng đắn cũng như một sự lắng nghe chăm chú và tôn trọng. Cuộc đối thoại phải được cắm rễ sâu trong sự tìm kiếm chân lý cách chân thành và hỗ tương, để thực hiện việc thăng tiến sự phát triển trong sự hiểu biết và bao dung. Cuộc sống không phải chỉ là một chuỗi những sự kiện và kinh nghiệm: đúng hơn nó là một sự tìm kiềm chân thiện mỹ. Chính nơi mục tiêu này mà chúng ta thực hiện những chọn lựa của chúng ta, mà chúng ta thực thi sự tự do của chúng ta và chính ở đó, tức là trong chân, thiện, mỹ, mà chúng ta tìm thấy hạnh phúc và niềm vui. Chúng ta không để mình bị lừa bịp bởi những người chỉ tìm kiếm những người hưởng thụ trên một thị trường với những cơ may khác nhau, nơi mà sự chọn lựa chính nó trở nên sự thiện hảo, sự mới mẻ được biến đổi thành vẻ đẹp, kinh nghiệm chủ quan gạt bỏ chân lý.
Quan niệm tình bạn có được một sự phục hồi mới trong từ vựng của các mạng lưới xã hội kỹ thuật số xuất hiện trong những năm vừa qua. Một quan niệm như thế là một trong những chinh phục cao quý nhất của nền văn hóa nhân loại. Trong các tình bạn của chúng ta và xuyên qua chúng, chúng ta lớn lên và chúng ta tự phát triển như là những hữu thể nhân linh.Vì thế, tình bạn đích thực đã luôn được xem như là một trong những sự phong phú to lớn nhất mà con người có được. Vì lý do này, cần phải lưu tâm đừng tầm thường hóa quan niệm và kinh nghiệm về tình bạn. Thật đáng buồn biết bao nếu ước muốn nâng đỡ và phát triển tình bạn on-line (qua internet) của chúng ta được thể hiện với giá phải hy sinh sự sẵn sàng của chúng ta cho gia đình, cho bà con thân thuộc của chúng ta và cho những người mà chúng ta gặp gỡ trong thực tế của đời thường, nơi làm việc của chúng ta, ở trường học, trong thời gian rảnh rỗi. Quả thế, khi ước muốn kết nối ảo trở nên ám ảnh, thì hậu quả là người ấy tự tách mình, cắt đứt một mối tương tác xã hội thực sự. Thậm chí điều đó cuối cùng phải làm xáo trộn thời gian nghỉ ngơi, thinh lặng và suy nghĩ cần thiết cho một sự phát triển nhân bản lành mạnh.
Tình bạn là một điều thiện hảo cao quý của con người, nhưng nó sẽ mất đi giá trị của nó, nếu nó được xem như là một cứu cánh tự thân. Các bạn bè phải nâng đỡ và khích lệ nhau để phát triển tư chất, tài năng của mình và dùng chúng phục vụ cho cộng đồng nhân loại. Trong bối cảnh này, thật là phấn khởi khi thấy xuất hiện những mạng lưới kỹ thuật số mới tìm cách khích lệ sự liên đới của con người, hòa bình và công lý, nhân quyền và lòng tôn trọng đối với sự sống và thiện ích của công trình tạo dựng. Những mạng lưới này có thể tạo điều kiện dễ dàng cho những hình thức hợp tác giữa các dân tộc có bối cảnh địa lý và văn hóa khác nhau, bằng cách cho phép họ đào sâu nhân tính chung của mình và ý nghĩa của sự đồng trách nhiệm đối với thiện ích của hết thảy mọi người. Tuy nhiên, cần phải lưu tâm làm sao để thế giới kỹ thuật số, nơi mà những mạng lưới như thế có thể được thiết lập, là một thế giới mà mọi người thực sự có thể tiếp cận. Thật là thiệt hại nghiêm trọng cho tương lai nhân loại, nếu các phương tiện truyền thông mới, mà cho phép chia sẻ sự hiểu biết và thông tin cách nhanh chóng và hiệu quả, lại không có thể tiếp cận đối với những người mà, về mặt kinh tế và xã hội, đã bị đẩy ra bên lề xã hội rồi hay nếu chúng chỉ đóng góp đào sâu thêm khoảng cách mà tách rời những người nghèo khỏi những mạng lưới mới được phát triển nhằm phục vụ thông tin và xã hội hóa con người.
Tôi xin kết thúc sứ điệp này bằng cách đặc biệt hướng đến các bạn trẻ Công giáo, để khích lệ họ mang đến cho thế giới kỹ thuật số chứng tá đức tin của mình. Các bạn trẻ rất quý mến, các con hãy dấn thân đưa vào trong nền văn hóa của lãnh vực truyền thông và thông tin mới mẻ này những giá trị mà cuộc sống của các con dựa vào! Vào thời sơ khai của Giáo Hội, các Tông đồ và các môn đệ của các ngài đã mang Tin Mừng của Chúa Giêsu đến cho thế giới Hy-La: khi đó, việc Phúc âm hóa, để được phong nhiêu, đòi hỏi sự hiểu biết chăm chú nền văn hóa và các phong tục của các dân ngoại này với mục đích chạm đến tâm trí và tâm hồn của họ; ngày nay cũng thế, việc loan báo Chúa Kitô trong thế giới các công nghệ kỹ thuật mới giả thiết một sự hiểu biết sâu xa về chúng để sử dụng chúng cách đúng đắn. Chính nơi những người trẻ các con, hầu như tự nhiên đồng cảm với các phương tiện truyền thông mới mẻ này, mà đặc biệt bổn phận phúc âm hóa “châu lục kỹ thuật số” này thuộc về các con. Các con hãy biết gánh lấy cách nhiệt tình việc loan báo Tin Mừng cho những người đương thời với các con! Các con biết sự sợ hãi và hy vọng của họ, sự nhiệt tình và thất vọng của họ: hồng ân cao quý nhất mà các con có thể làm cho họ là chia sẻ với họ “Tin Mừng” về một Thiên Chúa đã làm người, đã đau khổ, đã chết và đã phục sinh để cứu rỗi nhân loại. Tâm hồn con người khát mong một thế giới nơi tình yêu ngự trị, nơi các ân huệ được chia sẻ, nơi sự hiệp nhất được xây dựng, nơi sự tự do tìm thấy ý nghĩa của nó trong chân lý và là nơi mà căn tính của mỗi người được thể hiện trong một sự hiệp thông tôn trọng. Đức tin có thể mang lại một câu trả lời cho những mong đợi này: các con hãy là những sứ giả của nó! Đức Giáo Hoàng ở bên các con qua lời cầu nguyện và phép lành của mình.
Vatican, ngày 24 tháng Giêng năm 2009
+ BÊNÊĐICTÔ XVI, Mục tử của các mục tử
(Đúng vào ngày công bố sứ điệp này, Tòa Thánh Vatican cũng đã bắt đầu sử dụng trang web chia sẻ video Youtube ở địa chỉ sau: http://www.yYoutubecom/vatican)
________________________________
SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI NHÂN NGÀY THẾ GIỚI TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI LẦN THỨ 44
NĂM 2010 (16/05/2010)
“Linh mục và việc mục vụ trong thế giới kỹ thuật số:
Những phương tiện truyền thông mới phục vụ Lời Chúa”
Anh chị em thân mến,
Đề tài của Ngày Thế Giới Truyền Thông Xã Hội sắp đến – “Linh mục và việc mục vụ trong thế giới kỹ thuật số: những phương tiện truyền thông mới phục vụ Lời Chúa” –, thật thích hợp được lồng vào trong hành trình của Năm Linh Mục, và đặt lên hàng đầu suy tư về một lãnh vực mục vụ rộng lớn và tế nhị như lãnh vực của truyền thông và của thế giới kỹ thuật số, trong đó người linh mục được ban tặng những khả năng mới mẻ thực thi thừa tác vụ phục vụ Lời Chúa của mình. Từ rất lâu đời, những phương tiện truyền thông hiện đại thuộc về những phương tiện thông thường được các cộng đoàn Giáo Hội sử dụng để diễn đạt trong những giới hạn của lãnh thổ riêng của họ và, rất thường, để thiết lập những hình thức trao đổi trên quy mô rộng lớn hơn, nhưng việc mở rộng của chúng gần đây và ảnh hưởng đáng kể của chúng luôn làm cho việc sử dụng chúng trong thừa tác vụ linh mục trở nên quan trọng và hữu ích hơn.
Bổn phận hàng đầu của linh mục là loan báo Chúa Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa làm người, và thông truyền ân sủng cứu độ đa dạng của Thiên Chúa xuyên qua các bí tích. Được triệu tập bởi Lời Chúa, Giáo Hội thừa nhận mình như là dấu chỉ và dụng cụ của sự hiệp thông mà Thiên Chúa thực hiện với con người và mỗi linh mục được kêu gọi để xây dựng sự hiệp thông đó trong Ngài và với Ngài. Đó là phẩm giá và vẻ đẹp rất cao trọng của sứ vụ linh mục trong đó được thể hiện cách đặc biệt lời khẳng định của thánh Phaolô: “Quả thế, Kinh Thánh nói: Bất kỳ ai tin vào Người sẽ không phải hối tiếc… Quả thế, tất cả những ai kêu cầu danh Chúa đều sẽ được cứu thoát. Thế nhưng, làm sao họ kêu cầu vị Chúa mà trước tiên không tin vào Ngài? Làm sao tin Đấng họ không được nghe? Làm sao nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao rao giảng, nếu không được sai đi?” (Rm 10, 11,13-15).
Để đưa ra những câu trả lời thích ứng với những câu hỏi ở giữa những biến chuyển văn hóa lớn lao mà thế giới của những người trẻ đặc biệt được cảnh báo, những con đường truyền thông được mở ra bởi những cuộc chinh phục công nghệ kỹ thuật giờ đây là một phương tiện không thể thiếu. Quả thế, khi nắm trong tay những phương tiện mang lại một khả năng diễn đạt hầu như vô hạn, thế giới kỹ thuật số mở ra những viễn ảnh hiện tại hóa đáng kể cho lời khích lệ của thánh Phaolô: “Vô phúc cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng !” (1Cor 9, 16). Do đó, với việc phổ biến chúng, trách nhiệm loan báo không chỉ gia tăng, nhưng còn trở nên cấp bách hơn và đòi hỏi một sự dấn thân có động cơ và hữu hiệu hơn. Về phương diện này, người linh mục như là ở khởi đầu của một “lịch sử mới mẻ”, bởi vì các công nghệ kỹ thuật hiện đại càng tạo nên những mối quan hệ mật thiết và thế giới kỹ thuật số càng mở rộng các biên cương của nó, thì người linh mục sẽ càng được mời gọi lưu tâm đến chúng về mặt mục vụ, gia tăng sự dấn thân của mình, để dùng các phương tiện truyền thông phục vụ Lời Chúa.
Tuy nhiên, việc mở rộng nhiều phương tiện truyền thông và “bảng các chức năng phong phú” của chúng có thể bao hàm nguy cơ của một việc sử dụng chủ yếu được gợi ý bởi đòi hỏi thuần túy là hiện diện ở đó, và, cách sai lầm, xem trang Web chỉ như là một nơi cần được chiếm ngữ. Trái lại, các linh mục được yêu cầu khả năng hiện diện trong thế giới kỹ thuật số trong sự trung thành liên lỉ với sứ điệp Tin Mừng, để thực thi vài trò người hướng dẫn cộng đoàn của họ, mà từ nay diễn đạt, thường luôn nhiều hơn nữa, giữa “những tiếng nói” đến từ thế giới kỹ thuật số, và loan báo Tin Mừng bằng cách dùng, bên cạnh những phương tiện truyền thống, phần cống hiến của thế hệ các phương tiện nghe nhìn mới (hình ảnh, vidéo, phim hoạt hình, blog, các trang web) mà biểu lộ những cơ hội đối thoại mới mẻ và ngay cả những dụng cụ không thể thiếu cho việc loan báo Tin Mừng và dạy giáo lý.
Xuyên qua những phương tiện truyền thông hiện đại, người linh mục sẽ có thể làm cho biết đến đời sống của Giáo Hội và giúp đỡ những con người hôm nay khám phá ra khuôn mặt của Chúa Kitô, bằng cách kết hợp cách sử dụng thích hợp và thông thạo những dụng cụ như thế, cũng được thủ đắc trong suốt thời gian đào tạo, bên cạnh một sử chuẩn bị thần học vững chắc và một linh đạo linh mục vững vàng, được nuôi dưỡng bởi cuộc đối thoại liên lỉ với Chúa. Hơn cả bàn tay của người điều khiển truyền thông, người linh mục, trong sự va chạm với thế giới kỹ thuật số, phải làm lộ ra tâm hồn thánh hiến của mình, để mang lại ‘linh hồn’ không chỉ cho sự dấn thân mục vụ, nhưng còn cho dòng truyền thông liên tục của “mạng lưới”.
Cũng trong thế giới kỹ thuật số, cần phải rõ rằng sự quan tâm yêu thương của Thiên Chúa trong Chúa Kitô dành cho chúng ta không phải là một điều của quá khứ hay là một công trình thông thái, nhưng là một thực tại cụ thể và hiện thực. Quả thế, việc mục vụ trong thế giới kỹ thuật số phải có thể cho con người của thời đại chúng ta, và cho nhân loại lầm lạc hôm nay, thấy “rằng Thiên Chúa gần gũi ; rằng trong Chúa Kitô, chúng ta hết thảy thuộc về nhau.” (Benoît XVI, Diễn từ cho Giáo Triều Rôma dịp chúc lễ Giáng Sinh : Nhật báo Osservatore Romano bằng tiếng Pháp, ngày 21 /12/ 2009, tr.8).
Còn ai hơn linh mục, với tư cách là người của Chúa, có thể phát triển và đem vào thực hành, xuyên qua những khả năng của mình trong lãnh vực những phương tiện kỹ thuật số mới mẻ, một sự mục vụ cho thấy Thiên Chúa sống động và đang hành động trong thực tại thường ngày và trình bày sự khôn ngoan tôn giáo của quá khứ như là một kho tàng phong phú mà, cần múc lấy ở đó để sống ngày hôm nay cách xứng đáng và xây dựng tương lai cách đúng đắn. Nhiệm vụ của người làm việc trong các phương tiện truyền thông với tư cách là người được thánh hiến là nhiệm vụ mở ra con đường cho những cuộc gặp gỡ mới mẻ, bằng cách luôn đảm bảo phẩm chất của cuộc tiếp xúc của con người và sự quan tâm đối với những con người cũng như đối với những nhu cầu thiêng liêng đích thực của họ, bằng cách cho những người đang sống trong thời đại “kỹ thuật số” của chúng ta những dấu chỉ cần thiết để nhận ra Chúa ; bằng cách mang lại cơ hội vun trồng sự mong đợi và niềm hy vọng và cơ hội lĩnh hội Lời Chúa mà cứu độ và tạo điều kiện cho sự phát triển con người toàn diện. Như thế, Lời Chúa sẽ có thể băng qua giữa những ngã đường vô số được tạo nên do mạng lưới giao nhau của những đường cao tốc đang cày nên không gian mạng và khẳng định “quyền công dân” của Thiên Chúa cho dầu vào thời đại nào, để, xuyên qua những hình thức truyền thông mới mẻ, Ngài có thể tiến bước trên những con đường dài của thành phố và dừng lại ở ngưỡng cửa của những mái nhà và những tâm hồn để vẫn còn nói: “Này đây ta đứng trước cửa và gõ. Nếu ai nghe tiếng ta và mở cửa, thì ta sẽ vào nhà người ấy, ta sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với ta” (Kh 3, 20).
Trong sứ điệp năm ngoái, tôi đã khích lệ các vị hữu trách các doanh nghiệp truyền thông thăng tiến một nền văn hóa tôn trọng đối với phẩm giá và giá trị của nhân vị. Đó là một trong những con đường mà Giáo Hội được kêu gọi thực thi “việc phục vụ nền văn hóa” trên “châu lục kỹ thuật số” hôm nay. Với Tin Mừng trên tay và trong tâm hồn, cần phải tái khẳng định rằng cũng đến lúc tiếp tục chuẩn bị những con đường dẫn đến Lời Chúa, mà không chểnh mảng lưu tâm đặc biệt đến những ai đang ở trong hoàn cảnh tìm kiếm, và còn hơn nữa, không chểnh mảng canh chừng như là bước đầu tiên của việc loan báo Tin Mừng. Quả thế, việc mục vụ trong thế giới kỹ thuật số được mời gọi cũng lưu tâm đến những người không tin, những người nản chí và những người mang trong tâm hồn những ước muốn cái tuyệt đối và chân lý chóng qua, vì những phương tiện mới cho phép bước vào trong sự liên lạc với những tín hữu của mọi tôn giáo, với những người không tin và những người thuộc về các nền văn hóa khác. Như ngôn sứ Isaia đã đi đến chỗ hình dung một ngôi nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc (x. Is 56, 7), chúng ta có thể giả thiết rằng – như “hành lang của dân ngoại” trong Đền Thờ Giêrusalem – trang web cũng có thể mở ra một không gian cho những người mà Thiên Chúa còn vô danh đối với họ.
Việc phát triển những công nghệ kỹ thuật mới và, trong toàn bộ của nó, thế giới kỹ thuật số biểu thị một tài nguyên quý giá cho toàn thể nhân loại và cho con người trong tính độc đáo của hữu thể của nó, cũng như là một động viên cho việc gặp gỡ và đối thoại. Nhưng chúng cũng được giới thiệu cho các tín hữu như là một cơ hội lớn lao. Quả thế, không có con đường nào có thể và phải bị đóng lại đối với những ai, nhân danh Chúa Kitô Phục Sinh, dấn thân trở nên luôn gần hơn với con người. Do đó, những phương tiện truyền thông mới trước tiên mang lại cho các linh mục những viễn ảnh luôn luôn mới mẻ và bao la về mặt mục vụ, mà thúc đẩy các ngài làm nổi bật chiều kích phổ quát của Giáo Hội, vì một sự hiệp thông rộng lớn và cụ thể, trở nên những chứng tá, trong thế giới hôm nay, cho đời sống luôn luôn mới mẻ mà nảy sinh từ việc lắng nghe Tin Mừng của Chúa Giêsu, Người Con đời đời đã đến giữa chúng ta để cứu thoát chúng ta. Tuy nhiên, không được quên rằng sự phong nhiêu của thừa tác vụ linh mục, trước hết, phát xuất từ Chúa Kitô được gặp gỡ và lắng nghe qua đời sống cầu nguyện, được loan báo qua việc rao giảng và chứng tá bằng cuộc sống, được biết và yêu mến trong các Bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể và Hòa Giải.
Các linh mục rất quý mến, tôi lặp lại lời mời gọi nắm bắt cách khôn ngoan những cơ hội đặc biệt mà truyền thông hiện đại mang lại. Xin Chúa biến anh em thành những người loan báo say mê Tin Mừng ngay cả trong “công trường” do các phương tiện truyền thông hiện nay tạo nên.
Với những lời cầu chúc đó, tôi khẩn cầu sự bảo trợ của Mẹ Thiên Chúa và của Cha Sở Thánh xứ Arcs xuống trên anh em và tôi ưu ái ban Phép lành Tòa Thánh cho mỗi một người.
Từ Vatican, ngày 24.01.2010, Lễ Thánh Phanxicô Salêsiô
+ BÊNÊĐICTÔ PP. XVI
SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI NHÂN NGÀY THẾ GIỚI TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI LẦN THỨ 45
NĂM 2011 – Ngày 05/06/2011
“Chân lý, việc loan báo và cuộc sống đích thực ở kỷ nguyên kỹ thuật số”
Anh chị em thân mến,
Nhân dịp Ngày Thế Giới Truyền Thông Xã Hội lần thứ 45, tôi ao ước chia sẻ một vài suy tư, được gợi lên do một hiện tượng đặc trưng của thời đại chúng ta: sự bùng nổ truyền thông xuyên qua mạng lưới Internet. Ngày càng luôn có niềm tin phổ biến hơn rằng, cũng như cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo nên một sự thay đổi sâu xa trong xã hội xuyên qua những khám phá mới mẻ được đưa vào trong chu trình sản xuất và trong đời sống của người lao động, thì cũng thế ngày nay, sự biến đổi sâu xa thành hành động trong phạm vi truyền thông đang hướng dẫn dòng chảy những thay đổi văn hóa và xã hội lớn lao. Các công nghệ kỹ thuật mới không chỉ thay đổi phương thức giao tiếp, nhưng còn chính việc giao tiếp nữa, bởi thế, chúng ta có thể khẳng định rằng chúng ta đang tham dự vào một sự biển đổi văn hóa rộng lớn. Với một hệ thống phổ biến thông tin và kiến thức như thế, nảy sinh một cách thức học hỏi và suy tư mới mẻ, với những cơ hội mới mẻ thiết lập các mối tương quan và xây dựng sự hiệp thông.
Người ta nghiên cứu các mục tiêu không thể hình dung trước đây, chúng khơi lên sự kinh ngạc do những khả năng mà các phương tiện mới mang lại và, đồng thời, luôn đòi hỏi cách cấp bách hơn nữa một sự suy nghĩ nghiêm chỉnh về ý nghĩa của việc truyền thông trong kỷ nguyên kỹ thuật số. Điều đó đặc biệt rõ ràng khi đối diện với những tiềm năng phi thường của mạng lưới Internet và sự phức tạp của những ứng dụng của nó. Như mọi hoa trái khác của sự tài tình của con người, những công nghệ kỹ thuật truyền thông mới phải phục vụ cho thiện ích toàn diện của nhân vị và cho toàn thể nhân loại. Được sử dụng cách khôn ngoan, chúng có thể đóng góp vào việc làm thỏa mãn khát khao ý nghĩa, chân lý và hiệp nhất mà vẫn là khát vọng sâu xa của con người.
Trong thế giới kỹ thuật số, việc truyền tải thông tin thường luôn có nghĩa là đưa chúng vào trong một mạng lưới xã hội, nơi mà sự hiểu biết được chia sẻ trong bối cảnh những trao đổi cá nhân. Sự phân biệt rõ ràng giữa nhà sản xuất và người tiêu thụ thông tin được tương đối hóa và việc truyền thông có khuynh hướng không chỉ là một cuộc trao đổi các dữ kiện, nhưng còn luôn hơn nữa là một sự chia sẻ.
Sự năng động này đã đóng góp vào việc đánh giá mới mẻ về truyền thông, trước tiên được xem như là đối thoại, trao đổi, liên đới và tạo nên các tương quan tích cực. Mặt khác, điều đó vấp phải một số giới hạn tiêu biểu của việc truyền thông kỹ thuật số: tính phiến diện của việc tương tác, khuynh hướng chỉ truyền thông một vài khía cạnh thế giới nội tâm của mình, nguy cơ rơi vào một thứ xây dựng hình ảnh bản thân mà có thể dẫn đến sự tự mãn.
Nhất là các bạn trẻ đang sống sự thay đổi truyền thông này, với tất cả những lo âu, những mâu thuẫn và tính sáng tạo riêng của những người nhiệt thành và tò mò mở ra cho những kinh nghiệm mới mẻ về cuộc sống. Sư liên can luôn lớn lao trên vũ đài kỹ thuật số công cộng, vũ đài được tạo nên bởi những gì người ta gọi là các mạng xã hội, dẫn đến thiết lập những hình thức tương quan liên vị mới mẻ, ảnh hướng quan niệm về bản thân và do đó, không thể tránh khỏi, đặt ra câu hỏi không chỉ về tính lương thiện của hành động của bản thân, nhưng còn cả về tính đích thực của hữu thể. Sự hiện diện trên các không gian ảo có thể là dấu chỉ của một sự tìm kiếm gặp gỡ bản thân đích thực với người khác nếu người ta chú tâm tránh những nguy hiểm của chúng, những nguy hiểm ẩn náu trong một thứ thế giới song song, hay việc nghiện thế giới ảo. Trong việc tìm kiếm chia sẻ, “tình bạn”, người ta đang đối diện với thách đố đích thực, trung thực với chính mình, không nhượng bộ cho ảo tưởng xây dựng cách giả tạo “hình dáng” công cộng của mình.
Các công nghệ kỹ thuật mới cho phép người ta gặp gỡ nhau bên kia những biên cương của không gian và của các nền văn hóa, (và) như thế khai mào cả một thế giới tình bạn tiềm tàng hoàn toàn mới mẻ. Đây là một cơ hội to lớn, nhưng cũng bao hàm một sự chú ý lớn lao hơn và một ý thức đối với những nguy cơ có thể.
– Ai là “tha nhân” của tôi trong thế giới mới này?
– Phải chăng không có nguy hiểm ít hiện diện với những người mà chúng ta gặp gỡ trong đời thường của chúng ta?
– Phải chăng không có nguy cơ lơ đễnh hơn, bởi vì sự chú ý của chúng ta bị phân mảnh và bị hút mất trong một thế giới “khác” với thế giới trong đó chúng ta đang sống?
– Chúng ta có thời gian thực hiện một sự phân định phê bình các chọn lựa của chúng ta và có thời gian nuôi dưỡng các tương quan nhân bản mà thực sự sâu xa và bền vững không?
Điều quan trọng là luôn tự nhắc nhớ rằng việc tiếp xúc ảo không thể và không được thay thế cho việc tiếp xúc nhân vị trực tiếp với những con người ở mọi bình diện của cuộc sống của chúng ta.
Ngay cả trong kỷ nguyên kỹ thuật số, mỗi người được đặt đối diện với sự cần thiết là một người chân thành và có suy nghĩ. Vả lại, những năng động của các mạng xã hội cho thấy rằng một người luôn được bao hàm nơi những gì nó truyền thông. Khi người ta trao đổi nhau những thông tin, thì người ta đã chia sẻ về chính mình, về thế giới quan của họ, về những hy vọng, lý tưởng của họ. Kết quả là cũng có Một phong cách hiện diện Kitô hữu trên thế giới kỹ thuật số: nó được cụ thể hóa trong một hình thức truyền thông lương thiện và cởi mở, có trách nhiệm và tôn trọng người khác. Truyền thông Tin Mừng xuyên qua các phương tiện truyền thông mới có nghĩa là không chỉ lồng vào những nội dung tôn giáo thẳng thắn nơi các nền của các phương tiện đa dạng, nhưng còn làm chứng cách mạch lạc, trong hình dáng kỹ thuật số của mình và nơi cách thức truyền thông, những chọn lựa, những ưu tiên, những phán đoán cần được hòa hợp với Tin Mừng cách sâu xa, ngay cả khi người ta không nói về điều đó cách minh nhiên. Vả lại, ngay cả trong thế giới kỹ thuật số, không thể có loan báo sứ điệp mà không có một chứng tá hài hòa về phía người loan báo nó. Trong những bối cảnh mới và với những hình thức diễn tả mới, người Kitô hữu một lần nữa được mời gọi đưa ra một câu trả lời mà lý do hy vọng nơi người ấy đòi hỏi (x. 1Pr 3, 15).
Việc dấn thân làm chứng cho Tin Mừng trong kỷ nguyên kỹ thuật số đòi hỏi mọi người đặc biệt chú tâm đến những khía cạnh của sứ điệp này mà có thể thách đố một số lo-gíc tiêu biểu của trang web. Trước hết, chúng ta phải ý thức rằng chân lý mà chúng ta tìm cách chia sẻ không rút tỉa giá trí của mình từ “sự nổi tiếng” của nó hay từ số lượng truy cập. Chúng ta phải làm cho biết chân lý trong tình toàn vẹn của nó, hơn là tìm cách làm cho nó có thể chấp nhận, có lẽ “bằng cách làm dịu nó đi”. Nó phải trở nên một lương thực hằng ngày chứ không phải một quyến rũ chốc lát. Chân lý của Tin Mừng không phải là điều gì đó có thể là đối tượng tiêu thụ, hay của một sự vui hưởng nông cạn, nhưng là một ân huệ đòi hỏi sự đáp trả tự do. Ngay cả khi được công bố trong không gian ảo của mạng lưới, nó luôn đòi hỏi nhập thể vào thế giới thực và trong mối tương quan với những khuôn mặt cụ thể của anh chị em mà chúng ta chia sẻ cuộc sống đời thường. Bởi thế, những tương quan nhân loại trực tiếp vẫn luôn là nền tảng trong việc truyền tải đức tin!
Dù sao, tôi muốn mời gọi các Kitô hữu hiệp nhất với nhau cách tin tưởng và với óc sáng tạo có ý thức và trách nhiệm trong mạng lưới các tương quan mà kỷ nguyên kỹ thuật số đã làm cho khả thể. Không chỉ để thỏa mãn ao ước hiện diện, nhưng còn bởi vì mạng lưới này là một bộ phận của cuộc sống con người. Trang web đóng góp vào sự phát triển của những hình thức mới mẻ và phức tạp hơn của nhận thức trí tuệ và tâm linh, của xác tín chia sẻ. Ngay cả trong phạm vi này, chúng ta được mời gọi loan báo đức tin của chúng ta rằng Chúa Kitô là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ con người và lịch sử. Đấng mà trong Ngài mọi sự tìm thấy sự thành toàn của mình (x. Êph 1, 10). Việc công bố Tin Mừng đòi hỏi một hình thức truyền thông tôn trọng và thận trọng, kích thích tâm hồn và chất vất lương tâm; một hình thức nhắc nhớ phong cách của Chúa Giêsu Phục Sinh khi ngài trở nên người đồng hành với các môn đệ trên đường Emmaüs (x. Lc 24,13-35), mà dần dần được dẫn đến sự hiểu biết mầu nhiệm xuyên qua sự gần gũi và đối thoại với họ, để làm nổi lên cách tinh tế những gì đã có trong tâm hồn họ.
Xét đến cùng, chân lý mà chính là Chúa Kitô là câu trả lời trọn vẹn và đích thực cho ao ước tương quan, hiệp thông và ý nghĩa này của con người mà lộ ra ngay cả trong sự tham gia đông đảo vào các mạng xã hội đa dạng. Bằng cách chứng tỏ những xác tín sâu xa hơn của mình, các tín hữu mang lại một đóng góp quý báu để trang web không trở nên một dụng cụ giảm thiểu con người thành những phạm trù, một dụng cụ tìm cách thao túng họ về mặt xúc cảm hay cho phép kẻ mạnh độc quyền hóa các ý kiến của những người khác. Trái lại, các tín hữu khuyến khích mọi người duy trì sống động những vấn đề muôn thuở của con người, mà chứng tỏ lòng ao ước sự siêu việt và nỗi nhớ quê hương của nó đối với những hình thức sống đích thực, đáng được sống. Chắc chắn chính áp lực thiêng liêng nhân bản sâu xa này nằm ở đằng sau sự khao khát chân lý và hiệp thông của chúng ta và thúc đẩy chúng ta truyền thông cách liêm khiết và lương thiện.
Nhất là tôi mời gọi các bạn trẻ dùng đúng sự hiện diện của họ trên đấu trường kỹ thuật số. Tôi nhắc lại cuộc hẹn gặp của tôi với họ vào Ngày Quốc Tế Giới Trẻ Madrid sắp tới mà sự chuẩn bị nó phải nhờ nhiều đến những thuận lợi của các công nghệ kỹ thuật mới. Đối với các nhà hoạt động truyền thông, tôi cầu xin Thiên Chúa, nhờ lời cầu bầu của thánh Phanxicô Salê, quan thầy của họ, ban cho họ khả năng luôn thực hiện công việc của họ với một lương tâm cao cả và với một ý thức chuyên nghiệp chu đáo. Tôi gởi đến mọi người Phép Lành Tòa Thánh của tôi.
Vatican, ngày 24 tháng 01 năm 2011,
Nhằm ngày lễ thánh Phanxicô Salê.
BÊNÊĐICTÔ XVI, MỤC TỬ CỦA CÁC MỤC TỬ
Lm. Võ Xuân Tiến chuyển ngữ từ bản tiếng Pháp.
QUAN ĐIỂM CỦA LIÊN HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC Á CHÂU
VỀ TRUYỀN THÔNG
Á Châu là cái nôi của những tôn giáo lớn và của các nền văn hóa – văn minh rất lâu đời. Á Châu cũng là nơi mà Thiên Chúa đã chọn để thực hiện kế hoạch cứu độ của mình, là nơi Đức Giêsu sinh ra, và là nơi Giáo Hội đang hiện diện với các thực tế tôn giáo, kinh tế, xã hội và chính trị có rất nhiều thách đố. Với một đặc ân như thế Giáo Hội Á Châu phải sống và thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng của mình như thế nào? Và để đạt kết quả tốt Giáo Hội cần phải làm những gì? Các Giám Mục Á Châu đã đưa ra những hướng dẫn rất cụ thể cho các Giáo Hội địa phương về mặt này, đặc biệt là trong lãnh vực truyền thông xã hội.
Việt Nam thuộc về lục địa Á Châu, tuy nhiên do nhiều lý do khác nhau mà Giáo Hội Việt Nam vẫn mang nặng tính “Tây phương”, ít giao lưu với các Giáo Hội địa phương khác tại Châu Á. Ngày nay trên mọi bình diện, việc hội nhập giữa Việt Nam với khu vực Đông Nam Á và toàn vùng Á Châu đang được cải thiện ngày càng tốt hơn. Điều thuận lợi là có nhiều điểm chung và nhiều yếu tố tích cực trong các Giáo Hội tại Á Châu, chứng tá tình yêu và phục vụ của Kitô giáo cho người nghèo được biểu lộ rõ và có nhiều ảnh hưởng tốt đẹp… Chúng ta cần hiểu biết để phát huy các thế mạnh của mình.
Liên HĐGM Á Châu (FABC – Federation of Asian Bishops’ Conferences) được thành lập từ năm 1970 với sự chuẩn nhận của Tòa Thánh – là một Hiệp hội của các Hội Đồng Giám Mục Á Châu. Hàng năm các cuộc họp về Truyền Thông Xã hội của FABC đề ra những hướng dẫn trọng tâm, phù hợp với bối cảnh cụ thể cho Giáo Hội tại các nước Á Châu. Một số tuyên bố chung của các cuộc họp FABC – OSC sau đây sẽ cho chúng ta một cái nhìn cụ thể hơn về tình hình hiện nay.
FABC-OSC (Văn Phòng Truyền thông Xã hội của LHĐGMAC)
“Các Thách Thức Truyền Thông tại Châu Á”
HỘI NGHỊ CÁC GIÁM MỤC Á CHÂU LẦN THỨ I
Tại Tagaytay, Philíppin 8―12 tháng 7, 1996
CÁC PHÁT BIỂU CHÍNH THỨC
Trong tinh thần của một “cách hiện diện mới của Hội Thánh tại Châu Á” (Đại hội toàn thể FABC tại Bandung, 1990) và trong tinh thần Môn đệ của Đức Kitô phục vụ Đời Sống (Phiên họp toàn thể FABC tại Manila, 1995), các giám mục và thư ký HĐGM của 16 nước Châu Á đã tập họp tại Đại Chủng Viện Dòng Ngôi Lời ở Thành phố Tagaytay, Philíppin, từ 8 đến 12 tháng 7, 1996 và thảo luận về “Các Thách Thức Truyền Thông tại Châu Á.”
Đại hội toàn thể của Liên Hội Đồng Giám Mục Châu Á (FABC) tại Manila, tháng 1, 1995, trong lời phát biểu cuối cùng đã nói rằng các giám mục Châu Á “không bỏ lỡ giá trị mà các phương tiện đại chúng cống hiến trong việc phát huy các giá trị và ủng hộ các phong trào và quyền lợi của các dân tộc.” Cùng dịp này, ĐTC Gioan Phaolô II nhắc nhở các giám mục rằng họ “có trách nhiệm cổ vũ một cách khôn ngoan và trung thành các phương tiện để truyền thông Tin Mừng cho các nền văn hóa khác nhau của Châu Á.” Trong lá thư của Quốc Vụ Khanh gửi cho Hội Nghị Giám Mục ’96, ĐTC nói rằng “Lễ kỷ niệm sinh nhật lần thứ 2000 của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đang đến rất gần. Đây vừa là một cơ hội đặc biệt vừa là một nghĩa vụ đặc biệt đối với việc loan báo Tin Mừng cứu độ qua các phương tiện truyền thông. Tại Châu Á, cơ hội đặc biệt này còn được tạo thuận lợi nhờ việc du nhập mau chóng và rộng rãi các khả năng truyền thông trong mọi loại phương tiện, cũng như sự hiện diện ngày càng gia tăng của Hội Thánh trong lãnh vực quan trọng này…” (Thư của Hồng Y Angelo Sodano đề ngày 27 tháng 6, 1996 gửi TGM Oscar Cruz). Các thành viên tham dự Hội Nghị Giám Mục ’96 đã triển khai các thách thức này với các suy tư và nghị quyết sau đây:
Hội Thánh tự bản chất là truyền thông, bắt nguồn từ sự truyền thông của Ba Ngôi Thiên Chúa. Hội Thánh được thiết lập để tiếp nối công việc truyền thông của Đức Giêsu Kitô bằng lời nói và việc làm. Vì vậy truyền thông phải đánh dấu đời sống của Hội Thánh tại Châu Á. Do đó truyền thông phải là một chiều kích thiết yếu của mọi thừa tác vụ của Hội Thánh. Là quê hương của các tôn giáo lớn, Châu Á và việc rao giảng Tin Mừng cho Châu Á đòi hỏi đối thoại như là một lối sống.
Đáng tiếc là lời yêu cầu của Hội Thánh đối với các Văn Phòng Truyền Thông Xã Hội ở cấp quốc gia và giáo phận chưa được thi hành ở mọi vùng của Châu Á. Phải thiết lập cả ở cấp quốc gia và giáo phận một Kế Hoạch Mục Vụ về Truyền Thông để thể hiện nhiệm vụ loan báo tiên tri của Hội Thánh trong một xã hội rất ý thức về lãnh vực truyền thông này.
Tuy nhiên chúng ta không được quên sự thật này, đó là không phải kỹ thuật mà là con người mới chính là phương tiện truyền thông tốt nhất, đặc biệt trong các nền văn hóa của Châu Á. Cái có giá trị truyền thông trước tiên chính là chứng tá “về một đời sống Kitô hữu chân chính, được dâng lên cho Thiên Chúa trong một sự hiệp thông không thể bị tiêu diệt, và đồng thời được dâng hiến cho tha nhân với một nhiệt tình vô hạn” (Evangelii Nuntiandi 41). Đối với Châu Á là châu lục của tôn giáo, chính lòng đạo của chúng ta và tình yêu đối với loài người là phương tiện truyền thông tốt nhất.
“ÔVănhóa Mới được tạo ra bởi truyền thông hiện đại” (Redemptoris Missio 37) đang đem lại tiến bộ kinh tế trong các nước Châu Á, nhưng đồng thời cũng thường hủy hoại các giá trị và truyền thống Á Châu và Kitô giáo, đặc biệt giữa giới trẻ. Hội Thánh tại Châu Á nhận ra đây là một tiếng gọi mới để tích hợp các giá trị Tin Mừng vào ‘Văn Hóa Mới’ này.
Tiếng gọi này của văn hóa truyền thông cống hiến một cơ hội cho sự hợp tác liên tôn trong các hoạt động truyền thông, vì nó tác động tới mọi cộng đồng tôn giáo tại Châu Á. Vì vậy, đối thoại liên tôn để hiểu biết và hợp tác phải là một khía cạnh của mọi chương trình và hoạt động truyền thông của chúng ta. Chúng ta có nghĩa vụ phải cho các anh chị em chúng ta thuộc các tín ngưỡng khác thấy rõ rằng chúng ta hoàn toàn không đứng về phía những lực lượng phá hoại trong nền văn hóa mới. Nếu không làm được điều này, chúng ta sẽ càng đẩy họ xa rời chúng ta. Vì tại nhiều nước Châu Á, Kitô giáo vẫn còn bị coi là một tôn giáo ngoại lai của phương Tây, của những đế quốc thực dân.
Tuy nhiên, chúng ta phải cẩn thận tránh dán cái nhãn sa đọa hay xấu xa cho tất cả những gì thuộc về nền văn hóa truyền thông mới này. Chúng ta cũng không nên hốt hoảng và thất vọng giơ tay đầu hàng khi nghĩ rằng mình không thể làm được gì cả. Là tín hữu, chúng ta phải tin tưởng rằng mình có thể đối diện những thách thức này―chúng ta có thể giáo dục cho dân chúng để họ biết tự nuôi dưỡng mình bằng những điều tích cực trong nền văn hóa truyền thông này, nhưng cũng cương quyết loại bỏ tất cả những gì không phù hợp với đức tin chân chính của Kitô giáo và các giá trị truyền thống của Châu Á.
Giáo dục Truyền thông không chỉ có nghĩa là việc đào tạo kỹ thuật nhưng là giáo dục ý thức và hiểu biết về các cách biểu thị thực tại được tạo ra bởi các phương tiện truyền thông trong một xã hội được định hình bởi truyền thông. Hiểu như thế, Giáo dục Truyền thông là giáo dục cho mọi thành phần: giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh, lãnh đạo giáo dân, cha mẹ, giáo viên, thanh niên, thiếu nhi, các tổ chức phi chính phủ (NGO) và dân thường. Vì vậy Giáo dục Truyền thông phải là một phần cốt yếu và cơ bản của mọi Kế hoạch Mục vụ. Việc đào tạo phải được cung cấp các hình thức và phương pháp từ đơn sơ tới phức tạp. Vì vậy, các cơ cấu và chương trình đào tạo phải được triển khai bởi các êkíp chuyên môn ở cấp châu lục, và phải cung cấp các mẫu đào tạo.
Dựa trên các suy tư này, các thành viên đã nhất trí thông qua các biện pháp cụ thể sau đây:
Mỗi HĐGM phải có một Kế hoạch Mục vụ về Truyền thông, trong đó cũng bao gồm khía cạnh truyền thông cho mọi ngành phục vụ của HĐGM. Kế hoạch Mục vụ này phải đưa sứ mạng loan báo tiên tri của Hội Thánh hội nhập vào trong xã hội được định hình bởi truyền thông và rất ý thức về truyền thông này. Kế hoạch này sẽ bao gồm các yếu tố cấu tạo sau đây:
A. phân tích về tình trạng HĐGM;
B. các nguồn lực truyền thông có sẵn, gồm cả các phương tiện truyền thống và địa phương như tuồng hát rong, v.v… ;
C. một chiến lược cho việc sử dụng mọi nguồn lực hiện có này;
D. các mục tiêu thể hiện được hỗ trợ bởi các kế hoạch hành động;
E. các cơ chế để theo dõi việc thể hiện các mục tiêu.
Truyền thông ở mọi cấp phải tập trung đặc biệt vào các mối quan tâm của FABC như được diễn tả trong các suy tư của các phiên họp toàn thể và các hoạt động của các văn phòng khác nhau của FABC. Chúng bao gồm các mối quan tâm như phụ nữ và trẻ gái, gia đình, những người di dân, môi trường sinh thái, và tuổi trẻ Châu Á.
Bao nhiêu có thể, phải khuyến khích việc liên kết thông tin với các Kitô hữu của mọi Giáo Hội và hệ phái và với những người thuộc các tín ngưỡng khác trong các lãnh vực sản xuất, đào tạo và chia sẻ các nguồn lực.
Hội Đồng Giám Mục phải:
4.1 Coi các Quan hệ Công cộng là một quan tâm trọng yếu và có hành động phù hợp. Phải soạn ra các hướng dẫn để có sự ý thức và sử dụng tốt hơn.
4.2 Cố gắng nối kết bằng E-mail với nhau và với các giám mục khác ở Châu Á.
4.3 Các festival Truyền Thông Quốc Gia (vd., các festival video) hay các cơ sở đào tạo truyền thông, chẳng hạn như cơ sở ở Ấn Độ, cũng phải được mở rộng cho những người tham dự từ các nước khác ở Châu Á.
Mỗi nước cần có một Ủy Ban Giám Mục/Văn Phòng Quốc Gia về Truyền Thông Xã Hội. Các hoạt động của các cơ quan này phải được đưa xuống từng giáo phận với các nhiệm vụ được xác định rõ ràng.
Các Văn Phòng Truyền Thông Quốc Gia của các HĐGM phải khuyến khích việc tìm kiếm các tài năng trẻ, đặc biệt giữa giáo dân, để hoạt động trong lãnh vực truyền thông. Các tài năng này phải được chia sẻ ở cấp châu lục với sự hỗ trợ của Văn Phòng Truyền Thông Xã Hội của FABC.
Mọi văn kiện quan trọng gửi cho các giám mục phải có một bản tóm tắt chính thức được soạn một cách đơn sơ dễ đọc bởi Văn Phòng Quốc Gia của mỗi nước.
Giám mục chủ tịch Văn Phòng Quốc Gia của mỗi nước phải gửi cho các giám mục đồng sự và những người khác quan tâm tới truyền thông một trang thông tin mô tả rõ những trách nhiệm chính của cuộc họp của FABC-OSC này.
Về lãnh vực Giáo dục Truyền thông, các giám mục chủ tịch của các Văn Phòng Quốc Gia tại mỗi nước phải có một cố gắng chính thức để
– Làm cho Giáo dục Phương tiện Truyền thông và Giáo dục Ý thức Truyền thông trở thành một hoạt động bó buộc ở mọi cấp, đặc biệt trong các chủng viện;
– Tổ chức một Hiệp Hội Quốc Gia về Giáo dục Phương tiện Truyền thông;
– Sắp đặt các chương trình đào tạo các đào tạo viên truyền thông để cung cấp đủ nhân sự cho Giáo dục Phương tiện Truyền thông ở cấp quốc gia và châu lục.
Văn Phòng Truyền Thông Xã Hội của FABC phải tổ chức:
Các Hội Nghị Giám Mục của FABC-OSC hằng năm giống như hội nghị này, ít là cho ba năm tới, để duy trì nhiệt huyết và tạo cơ hội theo dõi các phát triển một cách có trách nhiệm và hiệu quả.
Các Khoá Đào Tạo Giám Mục về Truyền Thông Xã Hội (BISCOM). Các Văn Phòng Quốc Gia về Truyền thông Xã hội của các HĐGM phải đem các kết quả của các “Viện” này xuống tới các cấp địa phương.
Phải thực hiện các cố gắng để có sự hợp tác lớn hơn giữa Unda/OCIC và UCIP ở mọi cấp tại Châu Á.
Các Giám mục chủ tịch của các Ủy Ban Giám Mục Truyền Thông cấp Quốc Gia và các đại diện của FABC-OSC phải tham dự các Đại Hội của Unda/OCIC, UCIP và các ngày học tập cấp châu lục hằng năm.
Thông tin về các chương trình đào tạo, các sản phẩm, xuất bản của các Tổ Chức Truyền Thông Công Giáo tại Châu Á phải được chia sẻ, có thể là qua một tờ thông tin chung.
Phải đánh giá lại về cách thức và việc chọn ngày cho Ngày Thế Giới Truyền Thông.
Phải có một loạt chương trình nhằm phát triển ý thức về truyền thông;
Những người hoạt động trong các phương tiện truyền thông khác nhau, kể cả trong lãnh vực thế tục, phải được khích lệ, đặc biệt bởi các giám mục.
Chúng ta bao có thể phải nhắm tới một ngày cử hành chung để gia tăng ý thức cho dân chúng ở cấp châu lục.
Các Giám mục phải ý thức về tầm quan trọng và các khả năng của:
Radio Veritas Asia (RVA) để tường thuật và chia sẻ các giáo huấn của Hội Thánh và các sự kiện của Hội Thánh. Phải khuyến khích dân chúng nghe đài RVA và cung cấp các phản hồi về các chương trình.
Sáng kiến về một Chương Trình Truyền Hình Vệ Tinh Công Giáo qua đường truyền cáp Thai Sky Cable phải được sự hỗ trợ của mọi người.
Hội Thánh tại Châu Á có nhu cầu cấp bách về Nghiên Cứu Truyền Thông, tư duy hệ thống và có phê bình về truyền thông. Phải cổ vũ việc liên kết qua mạng và tập trung mọi nguồn lực sẵn có. ‘Giải Nghiên Cứu Truyền Thông’ (‘Communication Research Award’) của FABC-OSC phải được coi là một bước trong hướng này và được đặc biệt khuyến khích.
FABC-OSC (Văn Phòng Truyền thông Xã hội của LHĐGMAC)
“Một cách hiện diện mới của Hội Thánh tại Châu Á Các hệ quả truyền thông”
HỘI NGHỊ CÁC GIÁM MỤC Á CHÂU LẦN THỨ 2
Tại Samphran, Thái Lan, 24-28 tháng 11, 1997
CÁC PHÁT BIỂU CHÍNH THỨC
Dựa trên Các Phát Biểu Chính Thức và các kinh nghiệm của Hội Nghị Giám Mục ’96 của FABC-OSC từ ngày 8―12 tháng 7, 1996 tại Thành phố Tagaytay (Philíppin), Hội Nghị lần thứ hai của các Giám mục và các vị Đặc trách truyền thông xã hội của các HĐGM đã thảo luận một cách đặc biệt về các thách thức truyền thông của Một Cách Hiện Diện Mới của Hội Thánh tại Châu Á (Đại hội toàn thể lần thứ 5 của FABC, Bandung, 1990). 35 thành viên tham dự Hội Nghị nhóm họp tại Samphran (Thái Lan) từ 24 đến 28 tháng 11, 1997, đã đem ra thảo luận các phát biểu của FABC về Một Cách Hiện Diện Mới của Hội Thánh tại Châu Á. Một Hội Thánh như thế là:
Một sự hiệp thông các cộng đoàn
Một Hội Thánh chia sẻ thực sự
Một Hội Thánh làm chứng và đối thoại
Một Hội Thánh tiên tri
Là những nhà truyền thông chịu trách nhiệm trước các HĐGM, chúng tôi tự hỏi mình: Chúng tôi đang đi đâu và đang làm gì trong tinh thần của một cách hiện diện mới của Hội Thánh?
Đại hội toàn thể của FABC tại Bandung đã mô tả Hội Thánh như là “một sự hiệp thông (koinonia) ở mức độ sâu nhất, ăn rễ sâu trong đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi và vì thế tự bản chất là một bí tích của việc Thiên Chúa tự truyền thông với đầy tình yêu thương.” Nếu chúng ta là sự hiệp thông các cộng đoàn, việc truyền thông của chúng ta phải nhắm tới việc xây dựng cộng đoàn. Chúng ta cần tạo ra một kiểu lãnh đạo mới có khả năng giúp phát triển và tạo thuận lợi, là những lãnh đạo thực sự chứ không phải chỉ là những người đi theo. Tiếng nói của giáo dân phải được nghe thấy to hơn và rõ hơn. Những người bị loại trừ và nghèo khổ cũng phải có tiếng nói được nhìn nhận trong Hội Thánh.
Nếu chúng ta là một Hội Thánh chia sẻ thực sự, “biết nhìn nhận và kích thích các ân huệ mà Thần Khí ban cho mọi người” (FABC, Bandung), thì phải có một sự truyền thông có khả năng khích lệ tinh thần đồng trách nhiệm ở mọi cấp theo hàng dọc cũng như hàng ngang. Chúng ta phải tìm và tạo ra một ‘cơ chế hoạt động’ để thể hiện việc truyền thông này một cách hiệu quả. Chúng ta có thực sự được nhìn nhận như là Dân Thiên Chúa, dân cầu nguyện, đầy Thần Khí, năng động, rao giảng Tin Mừng và luôn hướng tới sứ mạng không? Chúng ta có chia sẻ tình yêu và sự quan tâm của Thiên Chúa với những người mà chúng ta làm việc với không?
Nếu chúng ta là một Hội Thánh làm chứng và đối thoại, việc truyền thông của chúng ta phải liên quan tới Thế Giới, nơi có những con người sống trong những niềm vui và hi vọng, sợ hãi và lo âu, bằng cách “vươn ra tới những người thuộc các tín ngưỡng và niềm tin khác trong một cuộc đối thoại đời sống hướng tới sự giải phóng toàn diện của mọi người” (FABC, Bandung). Vì vậy việc truyền thông của chúng ta
― Phải phản ánh sự lựa chọn ưu tiên cho những người nghèo và bị áp bức;
― Phải xây dựng trên những thời điểm và những sự kiện lịch sử, ví dụ, cái chết của Mẹ Têrêsa, các cuộc cử hành và các lễ kỷ niệm của các cộng đồng và các dân tộc;
― Phải có một tác động đúng lúc: chúng ta có dấn thân vào các vấn đề thời sự, ví dụ các vấn đề của quốc gia hay không?
― Phải có tính đối thoại.
Trong Hội Thánh, phải có các cố gắng cụ thể để loại bỏ các hố ngăn cách truyền thông và “thiết lập các quan hệ hiệu quả… bằng một sự truyền thông trong sáng, đối thoại và nổi bật về sự thành thật” (BISCOM I, Định hướng 4). Phải phát triển sự bình đẳng, đồng trách nhiệm cũng như các mối giao tiếp cá nhân.
Trong hoạt động truyền thông với các tôn giáo khác và với những người thiện chí bằng sự tin cậy lẫn nhau, cởi mở và trong sáng, Hội Thánh cần nhìn xa hơn các ranh giới của tổ chức để đi vào thế giới xa lạ được Thánh Thần dẫn dắt từ bên trong. Phải cổ vũ sự liên kết và hợp tác với các tôn giáo khác. Phải triển khai các kế hoạch cụ thể trong bối cảnh các vấn đề chung ảnh hưởng tới mọi người. Việc này “đòi hỏi sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau giữa người Công Giáo, các Kitô hữu khác, và các tín đồ của các tôn giáo khác, dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và nhắm tới hành động chung với nhau về Truyền thông” (Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội, Tiêu Chuẩn Hợp Tác Đại Kết và Liên Tôn, 1989, Số 19). “Đối thoại giữa các niềm tin dẫn tới sự hiểu biết và hợp tác phải là một khía cạnh của mọi chương trình và hoạt động truyền thông của chúng ta. Chúng ta có nghĩa vụ phải cho các anh chị em chúng ta thuộc các tín ngưỡng khác thấy rõ rằng chúng ta hoàn toàn không đứng về phía những lực lượng phá hoại trong nền ‘văn hoá mới.’ Nếu không làm được điều này, chúng ta sẽ càng đẩy họ xa chúng ta. Tại hầu hết các nước Châu Á, Kitô giáo chỉ chiếm một thiểu số, tại đây chúng ta cần làm cho các tôn giáo khác cảm thấy rằng chúng ta tôn trọng họ và họ có thể tin tưởng chúng ta. Chúng ta cùng mừng các lễ hội quốc gia và tôn giáo chung với mọi người. Thiên Chúa yêu thương mọi người.
Nếu chúng ta là Hội Thánh tiên tri, chúng ta phải là “men tạo biến đổi trong thế giới này và làm một dấu hiệu tiên tri chỉ về bên kia của thế giới này” (FABC, Bandung). Vì vậy việc truyền thông của Hội Thánh phải thách thức, loan báo và tố giác… Bằng cách nào chúng ta la to lên giống như các ngôn sứ với niềm xác tín và có sức thuyết phục người ta? “Cái có giá trị truyền thông trước tiên là chứng tá đời sống (Hội Nghị Giám Mục ’96), vậy chứng ta này của chúng ta ở đâu? Chúng ta có được nhìn nhận như là đứng về phía những người đang kêu gào công lý, hoà hợp, bình đẳng, sinh thái? Chúng ta không những phải kêu gào về những vấn đề không thể giải quyết tại đất nước chúng ta, nhưng cũng phải cho thấy rõ thực tế châu lục của chúng ta rất giàu các nền văn hoá, các truyền thống, các giá trị và các tôn giáo. Có được sự phong phú như thế, Hội Thánh phải nghĩ về mình như là một cộng đồng cho đi chứ không chỉ tiếp nhận. Hội Thánh phải coi đây là một tiếng gọi mới để tích hợp các giá trị Tin Mừng vào với “nền văn hoá mới do các phương tiện truyền thông tạo ra” (Hội Nghị Giám Mục ’96). Đây cũng là lúc để nghĩ về việc giúp đỡ lẫn nhau ngay trong lục địa Châu Á thay vì cứ trông chờ vào ngoại viện.
Việc nhiều người trẻ đang tìm kiếm hoà bình và tìm kiếm những điều siêu việt trong các tôn giáo khác phải là một thách thức để chúng ta thấy được nhiều dấu chỉ thời đại hơn và cố gắng lấp đầy khoảng trống trong lòng họ, bằng sự cộng tác với mọi người thiện chí khác.
Các thách thức của “Một cách hiện diện mới của Hội Thánh tại Châu Á” phải thúc đẩy chúng ta có những bước hành động cụ thể, gồm các điểm chính sau đây:
Chia sẻ các hệ quả truyền thông của cách hiện diện mới của Hội Thánh tại Châu Á với các giám mục và các lãnh đạo Hội Thánh của chúng ta, với các chủng sinh trong thời kỳ đào luyện và các giáo sư của họ, với giáo dân, đặc biệt những người dấn thân hoạt động tông đồ. Mọi việc lập kế hoạch mục vụ phải bao gồm điểm này (Hội Nghị Giám Mục ’96, số 1). Một sự hợp tác chặt chẽ và thiết thực giữa HĐGM và các giáo phận sẽ là một ví dụ tốt và cụ thể về sự hiệp thông các cộng đồng.
Ý thức rằng các phương tiện truyền thông thế tục tại nước chúng ta không luôn luôn hướng tới con người, không luôn luôn có giá trị giải phóng và góp phần vào một sự phát triển lành mạnh. Sự kiện này đòi Hội Thánh phải có một bước nghiêm túc tiến tới một chọn lựa khác, một thứ truyền thông dựa trên văn hoá bản xứ và hướng tới con người. Cần phải dành ưu tiên cho việc truyền thông giữa con người với nhau và truyền thông nhóm, đặc biệt trong giáo dục và đào luyện. Thay vì than vãn về sự xâm nhập của văn hoá và não trạng thực dân, Hội Thánh phải đi bước đầu để khuyến khích sự truyền thông văn hoá trong chính các tổ chức của mình.
Có các sáng kiến trong việc nêu bật các gương thành công của những con người tầm thường nhưng thực hiện được những công việc phi thường trong và ngoài Giáo Hội.
Đặt việc Giáo dục Phương tiện truyền thông lên vị trí quan trọng hàng đầu bằng cách xác định lại nó như là một hình thức mới của việc rao giảng Tin Mừng trong tình hình các phương tiện truyền thông đang xuất hiện tại châu lục chúng ta. Tại nhiều nơi, vẫn còn phải coi việc Giáo dục phương tiện truyền thông như là một môn “bắt buộc ở mọi cấp, đặc biệt trong các chủng viện” và phải tiếp tục việc ‘đào tạo các đào tạo viên truyền thông’ (Hội Nghị Giám Mục ’96, số 5).
Coi việc cử hành chung Ngày Thế Giới Truyền Thông như một cách quan trọng để góp phần tạo nên một cách hiện diện mới của Hội Thánh tại Châu Á (Hội Nghị Giám Mục ’96, số 8).
Thúc đẩy các việc học tập và nghiên cứu sâu hơn vào các nhu cầu và các hệ quả truyền thông nhằm đạt tới một cách hiện diện mới của Hội Thánh tại Châu Á.
Chia sẻ thông tin về các sự kiện và các phát triển truyền thông của Hội Thánh tại các nước khác nhau, kể cả với việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại như E-mail.
Chúng ta phải “coi các Quan hệ Công cộng như một mối quan tâm quan trọng và có hành động thích hợp” (Hội Nghị Giám Mục ’96, số 4; BISCOM I).
Cung cấp các sản phẩm có ích để thúc đẩy “một cách hiện diện mới của Hội Thánh tại Châu Á”, kể cả các sản phẩm của các phương tiện truyền thông thế tục và của các giáo phái Kitô khác (Hội Nghị Giám Mục ’96, số 3).
Cung cấp thông tin và chia sẻ bao có thể các phương tiện và nhân sự đào tạo giữa các HĐGM khác nhau.
FABC-OSC (Văn Phòng Truyền thông Xã hội của LHĐGMAC)
“Thượng Hội Đồng Giám Mục―Hội Nghị Đặc Biệt cho Châu Á: Các Viễn tượng và Thách thức của Truyền thông Xã hội”
HỘI NGHỊ CÁC GIÁM MỤC Á CHÂU LẦN THỨ 3
Tại Taoyuan, Đài Loan 23―28 tháng 11, 1998
CÁC PHÁT BIỂU CHÍNH THỨC
“Thượng Hội Đồng Giám Mục―Hội Nghị Đặc Biệt cho Châu Á” họp tại Roma từ 19 tháng 4 đến 14 tháng 5, 1998, là một ‘giờ phút ân sủng’ đặc biệt cho Hội Thánh tại Châu Á. Nó làm chúng ta một lần nữa ý thức về các mối quan tâm và các nghĩa vụ như đối thoại liên tôn, hiệp thông giữa các cộng đoàn, hội nhập văn hoá, đời sống thiêng liêng, một cách hiện diện mới của Hội Thánh, thăng tiến con người…
Trong thông điệp cuối cùng của Thượng Hội Đồng (THĐ), các Nghị Phụ nói rằng “các Phương tiện truyền thông xứng đáng được gọi là Areopagus, “Nghị Trường” của thời đại hôm nay; chính ở đây cũng như trong các lãnh vực khác, Hội Thánh có thể đóng một vai trò tiên tri và khi cần có thể trở thành tiếng nói của những người không có tiếng nói.”
Điều này phản ánh các mối quan tâm của Đức Gioan Phaolô II trong Redemptoris Missio: “Tuy nhiên, dấn mình vào các hoạt động truyền thông đại chúng không chỉ có nghĩa là củng cố việc rao giảng Tin Mừng. Ở đây còn có một thực tại sâu hơn: bởi vì chính việc rao giảng Tin Mừng cho nền văn hoá hiện đại lệ thuộc một phần lớn vào ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông, nên chỉ sử dụng các phương tiện này để truyền bá thông điệp Kitô giáo và các giáo huấn của Hội Thánh mà thôi thì không đủ. Cũng cần phải tích hợp thông điệp ấy vào trong ‘nền văn hoá mới’ được tạo ra bởi các phương tiện truyền thông hiện đại” (RM 37c).
Trong tinh thần này và dựa trên các Phát Biểu Chính Thức của các Hội Nghị Giám Mục ’96 và ’97 của FABC-OSC, chúng tôi, những thành viên tham dự hội nghị này, đưa ra những khuyến nghị sau đây:
1. Linh đạo Truyền thông
Với nhiều thách thức phải đối diện hôm nay, chúng tôi cảm thấy phải nhấn mạnh lại về linh đạo của những người hoạt động truyền thông. Linh đạo này “bắt nguồn từ sự truyền thông của Ba Ngôi Thiên Chúa” (Hội Nghị Giám Mục ’96).
Là ‘người truyền thông hoàn hảo’ (Tông huấn Communio et Progressio số 11), Đức Giêsu Kitô là mẫu mực cho mọi hoạt động truyền thông Kitô giáo.
“Những nhà truyền thông Kitô giáo cần phải là những con người đầy tràn Thánh Thần và đời sống cầu nguyện, ngày càng đi sâu hơn vào sự hiệp thông với Thiên Chúa để phát triển khả năng vun trồng sự hiệp thông giữa những người đồng loại. Họ phải là những người học được niềm cậy trông dưới mái trường của Chúa Thánh Thần, Đấng là tác nhân chính của việc rao giảng Tin Mừng thời đại mới… (Tertio Millennio Adveniente, số 45)” (ĐGH Gioan Phaolô II, Ngày Thế Giới Truyền Thông ’98).
Mọi linh đạo truyền thông được diễn tả trước hết và trên hết bằng chứng tá đời sống (xem Evangelii Nuntiandi, 41). Đối với người làm truyền thông ở Châu Á, điều này có nghĩa là:
họ phải là con người chiêm niệm và cầu nguyện, giống như người truyền giáo mà ĐGH Gioan Phaolô II mô tả như là con người ‘chiêm niệm trong hành động’ (xem RM 91).
có khả năng xây dựng cộng đoàn nhờ yêu thương, chia sẻ, hiệp thông, quan hệ và chất lượng;
nội dung việc truyền thông của họ phải cho thấy rõ ràng linh đạo của họ được đặt nền sâu xa trên Nhập Thể―các người truyền thông phải hướng tới con người;
việc loan báo các giá trị của Nước Trời giữa một xã hội đầy bạo lực, suy đồi và các thế lực xấu xa.
2. Đào luyện Linh đạo:
Trong khi các nhà truyền thông của Giáo Hội phấn khởi hoạt động như những nhà chuyên môn trong công việc của họ, người ta nhận thấy rằng ý thức về linh đạo đã suy giảm nơi họ. Vì vậy cần phải có những lãnh vực đào luyện được xác định rõ ràng cho:
các nhà truyền thông Công Giáo hoạt động trong lãnh vực truyền thông của Giáo Hội;
các nhà truyền thông Công Giáo hoạt động trong lãnh vực truyền thông thế tục;
các chuyên gia truyền thông nói chung.
3. Đối thoại với các nền Văn hoá và các Tôn giáo
Trong việc thể hiện “cách hiện diện mới của Hội Thánh tại Châu Á” (xem Hội Nghị Giám Mục ’97)―là điều cũng được Thượng Hội Đồng Giám Mục cho Châu Á nhấn mạnh (“Để họ có Sự Sống và sống dồi dào” (Ga 10:10)―cần phải khởi xướng sự hợp tác và trợ giúp nhiều hơn giữa mọi Kitô hữu với nhau, và với các dân tộc, các tôn giáo và các nền văn hoá khác.
Chúng tôi khuyến nghị việc thực hiện các chương trình thích hợp về Giáo dục Phương tiện Truyền thông, các phương tiện của truyền thống bản xứ để giúp người dân có tinh thần trách nhiệm hơn, nghĩa là để họ trở thành những người biết đánh giá, phê bình và phân định khi sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội trong nền văn hoá của họ.
4. Văn phòng/Cán bộ Quan hệ Công cộng
Trong bối cảnh của xã hội “truyền thông” hiện nay, chúng tôi khuyến nghị mỗi HĐGM và mỗi giáo phận chỉ định một Cán bộ Quan hệ Công cộng như là một phần của “Kế hoạch Mục vụ”, để thực thi các qui định của Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio (1971, số 174-176) và Aetatis Novae (1992, số 31) (Cũng xem BISCOM I, “Các Đường hướng và Khuyến Nghị”).
Vai trò chủ yếu của cán bộ này là làm cho sự hiện diện của Hội Thánh được cảm thấy nhiều hơn trong xã hội. “Tất cả các cán bộ này, thực ra tất cả những ai được đồng hoá với Hội Thánh trong quan niệm của công chúng, phải… tìm hiểu rõ loại thính giả mà họ đang đối diện và thiết lập mối quan hệ dựa trên sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau. Điều này chỉ có thể được duy trì bao lâu người ta có một sự tôn trọng và kiêng nể chân chính đối với nhau và có một sự tôn trọng tỉ mỉ đối với sự thật…” (C&P số 174).
5. Chăm sóc Mục vụ cho những người Công Giáo trong lãnh vực Truyền thông Thế tục
Trong việc chăm sóc cho những người Công Giáo trong lãnh vực truyền thông thế tục, chúng tôi khuyến nghị:
a) văn phòng truyền thông xã hội của giáo phận phải khởi xướng các mối tiếp xúc thường xuyên với họ;
b) các Giám mục bao có thể phải thường xuyên gặp gỡ các chuyên gia người Công Giáo cũng như các chuyên gia Kitô giáo khác và cả những người không thuộc Kitô giáo;
c) các chương trình đào luyện cho họ phải bao gồm môn Đạo đức Truyền thông và các ưu tiên mục vụ của Giáo Hội địa phương;
d) phải cho họ một vai trò nổi bật trong việc cử hành Ngày Thế Giới Truyền Thông.
6. Quan tâm tới các chuyên gia truyền thông
Các mục tử phải chấp nhận và nhìn nhận các chuyên gia truyền thông, phát triển và cổ vũ sự đối thoại và hợp tác với họ. (Xem C&P số 175; BISCOM I, “Đường hướng và Khuyến nghị”).
FABC-OSC (Văn Phòng Truyền thông Xã hội của LHĐGMAC)
“Megatrends Asia: Các Trào lưu Truyền thông cho Hội Thánh?”
HỘI NGHỊ CÁC GIÁM MỤC Á CHÂU LẦN THỨ 4
Tại Bangkok, Thái Lan, 22―27 tháng 11, 1999
CÁC PHÁT BIỂU CHÍNH THỨC
Nhập đề
Khi Châu Á bước vào thiên niên kỷ 3, các sự khác biệt về chủng tộc, ngôn ngữ, kinh tế và văn hoá hình như xuất hiện rõ nét hơn và ảnh hưởng tới đời sống và não trạng của một dân số ngày càng gia tăng đông đảo. Lục địa Châu Á được hưởng những sự tiến bộ về khoa học và kỹ thuật, và ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong giới kinh doanh và thương mại. Các phương tiện truyền thông là một yếu tố chính trong sự phát triển này.
Có những trào lưu mới đang xuất hiện mà chúng ta không thể làm ngơ.* Ở các mức độ khác nhau, các trào lưu này đang ảnh hưởng tới tình hình hiện tại và tương lai của Châu Á. Các “megatrends” này thách thức một cách đặc biệt các lãnh đạo Hội Thánh và các nhà truyền thông Kitô giáo.
1. Từ các Quốc gia đến các Mạng
Ngày nay, không còn tình trạng các quốc gia riêng lẻ tranh đấu với nhau để giành quyền bá chủ chính trị hay kinh tế. Nhiều quốc gia đã liên kết với nhau, thường là vì các lý do kinh tế hơn là chính trị. Các Mạng liên kết đang xuất hiện dựa nhiều hơn trên các quan hệ chủng tộc và/hay các lợi ích kinh tế chung.
Các Thách thức
1. Vì hình ảnh công cộng của Hội Thánh có một tầm quan trọng đặc biệt, chủ yếu trong môi trường phi Kitô giáo, nên cần phải phát triển các văn phòng Truyền Thông/Quan hệ Công cộng ở các cấp quốc gia và giáo phận với các hệ thống thông tin như Fax, E-mail, mạng Internet, Intranet, Website, v.v… để có thể dễ tiếp cận thông tin và dễ kết nối mạng. (Xem BISCOM I, 1997; BISCOM I.1, 1999; Hội Nghị Giám Mục ’98, số 4).
2. Phải có các cố gắng hợp tác ở cấp giáo xứ, giáo phận, khu vực và quốc gia để ra các tạp chí và các sản phẩm khác của Hội Thánh hầu giúp cho các Kitô hữu thuộc các nền văn hoá và các quốc gia khác nhau có thể hiểu biết nhau hơn và hợp lực với nhau.
3. Ngoài các nhà nguyện và nhà thờ của chúng ta, chúng ta có thể cung cấp các phòng cầu nguyện trong các cơ sở Công Giáo của chúng ta để các tín hữu của mọi hệ phái có thể cảm thấy “thoải mái như ở nhà mình.”
4. Ngành truyền thông Kitô giáo phải giúp cho dân hiểu biết các hiệp định thương mại khác nhau (như NAFTA, APEC,* v.v…) để giúp họ bảo vệ quyền lợi của họ và tránh bị bóc lột.
2. Từ Xuất khẩu tới Tiêu thụ “văn hoá”
Có một thời Châu Á sản xuất chủ yếu các mặt hàng tiêu thụ giá rẻ để xuất khẩu. Bây giờ, Nhật Bản và các “con rồng” kinh tế khác của Châu Á đã mạo hiểm vào lãnh vực viễn thông, máy tính và các công nghệ hiện đại khác. Sự kiện này dẫn đến sự thịnh vượng kinh tế cao hơn nhưng cũng làm xuất hiện các nền “văn hoá” tiêu thụ mạnh. (xem ĐGH Gioan Phaolô II, Ecclesia in Asia, 77, 39).
Các Thách thức
1. Các ảnh hưởng của chủ nghĩa tiêu thụ phương tây có khuynh hướng phát triển các nền văn hoá không có Thiên Chúa và các giá trị sâu xa. Truyền thông Kitô giáo phải giúp duy trì địa vị của Thiên Chúa và đưa Người trở về lại trung tâm của đời sống con người, là điều rất phù hợp với các giá trị của Châu Á. (Xem ĐGH Gioan Phaolô II, Ecclesia in Asia, 29).
2. Giáo dục Truyền thông Kitô giáo phải giúp người ta xác định rõ các nhu cầu thực sự của họ chứ không để mình bị lôi kéo bởi những mánh khóe dụ dỗ. Phải tích hợp các chương trình này vào mọi hoạt động phục vụ của Hội Thánh. (Xem Hội Nghị Giám Mục ’96; Hội Nghị Giám Mục ’97, 5d).
3. Chống lại sự thống trị của một “văn hoá tiêu thụ,” các nhà truyền thông Kitô giáo phải giúp xây dựng những nền văn hoá khác được đặt nền trên một linh đạo truyền thông sâu xa.
4. Các vấn đề công lý, hoà bình và bình đẳng xã hội là những nội dung cơ bản của mọi việc truyền thông Kitô giáo.
5. Phải giúp những người tiêu thụ hiểu rõ những thực tế ẩn đàng sau những chương trình quảng cáo và những chiến lược tiếp thị. Mặt khác, việc quảng cáo tốt có thể giúp cổ vũ các giá trị Châu Á và Kitô giáo. (Xem Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền thông Xã hội, Đạo đức trong quảng cáo, Rôma 1997).
3. Từ phong cách Phương Tây đến phong cách Châu Á
Tại Châu Á, chúng ta ngày càng ý thức hơn về các giá trị và truyền thống trong các nền văn hoá của chúng ta cũng như bản sắc chính trị, kinh tế và văn hoá-xã hội của chúng ta. “Phong cách Châu Á” đang ngày càng được ưa chuộng nhiều hơn cả ở các châu lục và các nước khác trên thế giới.
Các Thách thức
1. Chương trình đối thoại ba mặt của FABC với người nghèo, các tôn giáo và vàc nền văn hoá Châu Á cần phải được phát triển và hỗ trợ nhiều hơn nhờ các chương trình truyền thông có liên quan. (Xem Hội Nghị Giám Mục ’97, 3).
2. Các việc thực hành tôn giáo của chúng ta vẫn còn mang phong cách rất phương Tây. Việc truyền thông Kitô giáo phải giúp dẫn tới một Hội Thánh hội nhập văn hoá hơn bằng cách sử dụng nhiều hơn các biểu tượng và các cách diễn tả truyền thông của Châu Á. Trong Hội Thánh, các cuộc cử hành phụng vụ và đặc biệt các bài giảng phải mang tính truyền thông và đáp ứng các nhu cầu và tình cảm thực sự của dân Châu Á. (Xem Gioan Phaolô II, Ecclesia in Asia, 22).
3. Kitô giáo thường được nhìn như là một tôn giáo của hành động xã hội, giáo dục và quản trị. Nhưng tác động của kinh nguyện và đời sống thiêng liêng phải được phản ánh trong các việc truyền thông của chúng ta, bởi vì một nhà truyền thông Kitô giáo là một người “chiêm niệm trong hành động.” (Xem Hội Nghị Giám Mục ’98, 1). Sau cùng, kinh nguyện và đời sống thiêng liêng của chúng ta tập trung vào con người bởi vì chúng ta truyền thông sự thật trọn vẹn về con người, mà phẩm giá con người bắt nguồn từ bản chất “là hình ảnh của Thiên Chúa” được ban quyền năng nhờ Thần Khí của Chúa Giêsu trong tình yêu sung mãn của Chúa Cha. (FABC, Hội nghị Tham vấn về Rao giảng Tin Mừng và Truyền thông, 1999, Đường hướng và Khuyến nghị I.2).
4. Khoảng cách ngày càng lớn giữa các thế hệ khác nhau và các nhóm văn hoá khác nhau cần phải được vượt qua bằng đối thoại và truyền thông chân chính.
5. Không phải mọi cái gì truyền thống đều đương nhiên là tốt. Các nền văn hoá ảnh hưởng lẫn nhau. Truyền thông Kitô giáo phải giúp phân định rõ các giá trị thật, các ưu tiên và nhu cầu thật của các cộng đồng và cá nhân để dẫn tới một đường lối hành động có trách nhiệm.
4. Từ Kinh tế do Nhà Nước chỉ huy tới Thị trường Tự do
Trong khi vai trò của các chính phủ đang được giới hạn vào việc hỗ trợ luật pháp và kiểm toán, thì việc quản lý các công trình và các tiện ích công cộng được chuyển sang cho lãnh vực tư nhân. Tiến trình tư nhân hoá các công trình truyền thông ngày càng tăng cũng tạo ra thêm những khả năng và trách nhiệm của việc truyền thông.
Các Thách thức
Trong một môi trường ngày càng đi theo khuynh hướng thị trường, việc truyền thông Kitô giáo phải tiếp tục cho thấy rõ những hoàn cảnh khó khăn của những người nghèo, những người bị loại trừ, những dân thiểu số, những nền văn hoá bản địa, những người lao động nhập cư, v.v… Họ phải quí chuộng các giá trị của các nền văn hoá đang có nguy cơ biến mất và giúp chúng tồn tại.
Các phương tiện truyền thông phải là “tiếng nói của những kẻ không có tiếng nói.” Vì các công trình truyền thông tư nhân rất ít quan tâm tới những người bị loại trừ, chúng ta phải có can đảm nói lên những tình cảnh và nhu cầu của những người này. (Xem Hội Nghị Giám Mục ’97, số 1).
Giáo dục môi trường và các vấn đề sinh thái phải được truyền thông Kitô giáo nói đến.
Các nhà truyền thông Kitô giáo phải góp phần bảo vệ các khu di tích văn hoá và tôn giáo, và giữ chúng khỏi bị khai thác quá đáng bởi ngành du lịch thương mại.
5. Từ các Làng Xã tới các Siêu Đô Thị
Các đô thị ngày càng được mở rộng do tình trạng nhập cư từ các vùng nông thôn. Đa số các “siêu đô thị” trên thế giới vào thế kỷ 21 sẽ nằm ở Châu Á.
Các Thách thức
Các việc phục vụ cho thành phố cần có một phương thức truyền thông đặc biệt. Truyền thông Kitô giáo phải giúp dân đô thị phát triển từ tình trạng vô danh tới tình trạng cộng đồng.
Phải làm cho dân chúng ở vùng nông thôn ý thức được rằng họ không bất lực. Các dự án truyền thông đại chúng giúp phát triển sự ý thức này và phải góp phần vào việc tích cực chấp nhận các giá trị của nông thôn.
Các “tế bào truyền thông” ở mỗi giáo xứ có thể giúp phát triển một phương thức đặc biệt để phục vụ các nhu cầu địa phương.
6. Từ Lao động cần cù tới Công nghệ cao
Những tiến bộ về khoa học và kỹ thuật cũng đã thúc đầy Châu Á đi tiên phong trong cuộc cách mạng công nghệ cao. Một tình trạng “chảy ngược chất xám” đang bắt đầu diễn ra.
Các Thách Thức
1. Truyền thông Kitô giáo phải giúp cổ vũ việc giáo dục công nghệ cao để góp phần phát triển các quốc gia chúng ta.
2. Giới trẻ, đặc biệt tại các thành phố, đang lớn lên với những trang thiết bị truyền thông hiện đại nhất. Các lãnh đạo Hội Thánh phải ý thức về tầm quan trọng và tiềm năng của các công nghệ truyền thông hiện đại đối với các cộng đồng của họ, đặc biệt các người trẻ trong các cộng đồng này, và phải đáp ứng các thách thức này. (Xem Gioan Phaolô II, Redemptoris Missio, 37c).
7. Từ Giàu tới Nghèo
Bất chấp vẻ thịnh vượng và phát triển bề ngoài, chúng ta không thể phủ nhận tại nhiều nước Châu Á đang có sự gia tăng tình trạng mất cân đối kinh tế và khoảng cách giữa người giàu và người nghèo.
Các Thách Thức
1. Các nhà truyền thông Kitô giáo phải giúp làm cho người nghèo ý thức về tình hình của họ và cổ vũ các chương trình giúp họ phát triển. (Xem Paulo Freire: “conscientization”― “gây ý thức”).
2. Họ phải thách thức những người giàu và làm cho các tập đoàn đa quốc gia ý thức trách nhiệm của họ đối với gia đình nhân loại để các nguồn tài nguyên của thế giới được chia sẻ cho mọi người.
3. Các nhà truyền thông Kitô giáo phải giúp người ta thấy được những hậu quả tích cực cũng như tiêu cực của tiến trình toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá không được làm hại các dân tộc và các quốc gia trong nhân phẩm của họ, nhưng phải góp phần phát triển nhân phẩm của họ.
8. Từ các Truyền thống tới các Chọn lựa
Trong quá khứ, giới trẻ lớn lên trong các xã hội dựa trên những truyền thống ổn định về văn hoá, đạo đức và thiêng liêng. Ngày nay, các truyền thống này thường bị thay thế bằng các chọn lựa khác nhau hiện có cho cá nhân cũng như cộng đồng. (Xem Gioan Phaolô II, Ecclesia in Asia, số 7, 39).
Các Thách Thức
Việc Truyền thông Kitô giáo phải cho thấy rõ giá trị của các truyền thống, nhưng đồng thời cũng phải giúp nhận ra các sự phát triển mới.
Đặc biệt giới trẻ cần được hướng dẫn trong một xã hội ngày càng đa dạng hơn. Các nhà truyền thông Kitô giáo phải là bạn đồng hành và người dẫn dắt cho giới trẻ, chứ không chỉ quan tâm tới các lợi lộc vật chất và tiền bạc do các hoạt động của mình.
Trong tình hình truyền thông hiện nay, khi mà các tin tức có thể đến được với mọi người ngay tức khắc, các nhà báo và các lãnh đạo của Hội Thánh không còn chỉ là những người “gác cửa” để xác định điều gì có thể đến được với công chúng. Họ phải là những “người hướng dẫn” trong cả một rừng những chọn lựa, được soi sáng bởi các nguyên tắc và quan điểm của đức tin Kitô giáo.
9. Sự xuất hiện của Phụ nữ
Ngày càng có nhiều phụ nữ nắm giữ các địa vị quan trọng mà trước kia chỉ dành cho nam giới. Việc giáo dục phụ nữ ở các bình diện khác nhau đã giúp dẫn tới sự phát triển này.
Các Thách Thức
Các nhà truyền thông Kitô giáo phải đối diện một cách hiệu quả với hoàn cảnh của phụ nữ, đặc biệt trong các lãnh vực họ bị hạ giá nhân phẩm qua việc giết hại trẻ thơ, buôn bán tình dục, v.v…
Trong các trung tâm truyền thông của Giáo Hội, các phụ nữ phải được giao phó trách nhiệm giám đốc, giảng dạy, chứ không chỉ là những thư ký và trợ lý.
Các nhà truyền thông Kitô giáo phải làm ra các chương trình trong đó tạo được những yếu tố thuận lợi cho việc đối thoại giữa truyền thống và các nhóm phụ nữ mới xuất hiện.
10. Từ Niềm tin tới Chủ nghĩa cực đoan
Sự xuất hiện của chủ nghĩa cực đoan và chủ nghĩa thế tục đã làm phát sinh sự bất ổn và các tình huống đối địch giữa các nhóm quốc gia và các cộng đồng khác nhau.
Các Thách Thức
1. Hội Thánh và các lãnh đạo Hội Thánh phải tránh bất cứ điều gì có thể dẫn người ta tới thái độ cuồng tín. Việc truyền thông Kitô giáo phải cổ vũ sự hợp tác cũng như sự thống nhất, và phải hoà giải những thái cực đang xuất hiện trong các cộng đồng và xã hội. (Xem Hội Nghị Giám Mục ’97).
2. Việc truyền thông Kitô giáo phải làm nổi bật những điểm tương đổng và những giá trị chung giữa mọi tôn giáo của Châu Á, và phải giúp người ta kính trọng lẫn nhau, đặc biệt trong các niềm tin tôn giáo của họ. (Xem Hội Nghị Giám Mục ’97; ’98).
FABC-OSC (Văn Phòng Truyền thông Xã hội của LHĐGMAC)
“Một Giáo Hội đổi mới tại Á Châu: Truyền thông Tình yêu và Sự Phục vụ”
HỘI NGHỊ CÁC GIÁM MỤC Á CHÂU LẦN THỨ 5
Tại Johor Bahru, Malaysia: 27/11- 2/12/ 2000
1. Truyền thông tình yêu và sự phục vụ
Chúng ta hiểu rằng không thể có sự phục vụ nếu không có tình yêu và vì vậy, việc phục vụ được thực hiện trong Giáo Hội qua các hoạt động trong nhiều lãnh vực khác nhau cần phải được huy động bằng Tình yêu thánh thiêng mà Chúa Giêsu chính là mẫu gương tuyệt vời.
Để Truyền thông Tình yêu và Sự Phục vụ cho các dân tộc ở châu Á, chúng ta, với tư cách là các nhà truyền thông, cần trước tiên phát triển mối tương quan cá nhân với Thiên Chúa và sau đó với những khán thính giả của mình. Chúng ta phải đụng chạm đến đời sống của người khác như những con người thiêng liêng mang lại cho họ sự phục vụ (x. BM ’98, 1tt). Để thức tỉnh lương tâm các dân tộc và để đấu tranh cho công bình thường có nghĩa là xây dựng những cầu nối với người dân từ những nẻo đường khác nhau của cuộc sống.
Cụ thể hơn, tại Châu Á hôm nay, chúng ta sẽ Truyền thông Tình yêu và Sự Phục vụ bằng cách – Đồng hoá chính mình với các dân tộc của châu Á qua việc sẵn sàng để được sử dụng và lắng nghe một cách sâu hơn. Trong quá trình truyền thông này, chúng ta được mời gọi là để hiện diện và đồng hành với con người. Sự lắng nghe này bao hàm việc được phong phú hoá bởi kinh nghiệm đức tin, sự đa dạng về văn hóa, sự khôn ngoan và các truyền thống văn học của quá khứ.
Một sứ vụ chữa lành được soi sáng bởi sự thật và công bình như việc chữa lành của người Sa-ma-ri nhân hậu đối với những người bị tổn thương bởi các xung đột về sắc tộc, liên tôn giáo và ngôn ngữ cũng như về chính trị, kinh tế, và sự khai thác về văn hóa.
Chịu đựng cách kiên nhẫn những đau khổ và tra tấn hiện nay – như Người tôi tớ đau khổ qua việc tha thứ và xót thương, và có thể giúp thay đổi tình trạng làm việc bất công với lòng dũng cảm.
Thăng tiến tình huynh đệ, tự do và phẩm giá con người và từ chối sự cuồng tín tôn giáo, chủ nghĩa hạ thấp con người “ghettoism” và sự loại trừ.
Cổ võ sự đại kết rộng hơn giữa tất cả các Kitô hữu, và cởi mở để đối thoại liên tôn (x. BM’ 97, 3).
Gần gũi và gia tăng năng lực cho các anh chị em của chúng ta đang chịu những ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hoá và một nền kinh tế thị trường trong Tinh thần các giá trị của Triều đại Thiên Chúa.
Phát huy các hoạt động của các cộng đồng Kitô hữu cơ bản (BCC) và các nhóm truyền thống nhấn mạnh đến người trẻ và các gia đình.
2. Một Giáo Hội đổi mới Truyền thông Tình yêu và sự Phục vụ
Để làm chứng tá cho các dân tộc Á Châu về một Giáo Hội đã đổi mới và luôn luôn đổi mới, các nhà truyền thông nên tập trung vào các sự kiện thực tế dựa trên sự hiệp thông của các cộng đoàn xây dựng trên Lời Chúa (x. Một phương cách hiện diện mới của Giáo Hội Á châu, BM’ 97, 1). Bởi phát huy các giá trị của sự hiệp thông này, nhà truyền thông có thể giúp cải thiện chất lượng đời sống của các dân tộc.
Một Giáo Hội được đổi mới cần đáp ứng:
Tiếp tục các công tác phục vụ xã hội và nhân đạo để làm phong phú thêm và gia tăng năng lực cho người dân, giúp họ đứng trên đôi chân của mình, và giữ được phẩm giá con người. Sự giúp đỡ để đáp ứng các nhu cầu không chỉ đến từ sự dồi dào của cải hoặc hỗ trợ từ nước ngoài nhưng từ những gì mà chúng ta có.
Là một cộng đồng chia sẻ và phản ánh lòng bác ái, bao gồm những tài năng và nguồn lực: “Hãy xem họ yêu thương nhau thế nào…” (Cv 2:43 tt, 4:32 tt)
Tôn trọng và đối thoại với các tôn giáo khác thông qua việc phục vụ và bác ái (x. BM’97, 3).
Là GH của người nghèo (“Anawim”), mở ra cho các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
Là một Giáo Hội có sự tham gia, nơi mà đặc biệt là vai trò của người giáo dân được công nhận (x. BM’97, 2).
Ý thức về các ân ban và Đoàn sủng của các thành viên, và sử dụng tất cả cho sự tăng trưởng của Giáo Hội.
Là một Giáo Hội làm phát sinh và phục vụ cho sự sống.
Đón tiếp các phương cách truyền thông mới trong việc làm chứng tá, dạy giáo lý, việc phụng tự, và loan báo Tin Mừng (x. BISCOM II, 1999).
3. Những cách thức và phương tiện của Truyền thông Tình yêu và Phục vụ
Mỗi Kitô hữu, do cách sống của mình, phải Truyền thông Tình yêu và sự Phục vụ. Những lời nói và hành động của họ phải chiếu toả Đức Kitô.
Tất cả các phương tiện truyền thông đều tuỳ thuộc quyền sử dụng của chúng ta. Tuy nhiên chúng ta cần phải nhấn mạnh rằng những phương tiện truyền thống, đã phát triển qua nhiều thế kỷ trong nền văn hóa của mình, chính là cội nguồi của việc truyền thông. Chính qua sự hiểu biết rõ ràng về các phương tiện truyền thống đó mà chúng ta có thể thực sự khám phá cách thức Á châu của của truyền thông qua giao tiếp và nhờ đó, khám phá ra khuôn mặt Á châu của Chúa Giêsu.
Các phương tiện truyền thông đại chúng sẵn có trong Giáo Hội hôm nay, không nên chỉ được nhìn dưới khả năng thương mại và tiêu thụ của chúng, nhưng nên được Giáo Hội sử dụng như là phương cách thay thế cho tiếng nói của mình, mà không cần biết đến những gì thương mại đạt được.
Các kỹ thuật truyền thông hiện đại (x. BISCOM II, 1999) cống hiến cho Giáo Hội những cách thức mới để truyền thông Tin Mừng, cũng như tăng cường khả năng mục vụ.
Một Giáo Hội đổi mới phải sử dụng tất cả các hình thức của truyền thông sẵn có, đặc biệt là những kỹ thuật mới đang nảy sinh. Tuy nhiên, tất cả các phát triển mới này không thể thay thế cho việc đối thoại diện đối diện.
Nhà truyền thông Công giáo nên chuyển đổi tự do giữa nhiều phương cách truyền thông khác nhau và có thể giữ quân bình việc sử dụng các phương tiện truyền thông theo tiếng gọi của Tin Mừng.
Những quan tâm đặc biệt về truyền thông trong một Giáo Hội đổi mới:
Một linh đạo, “chảy trào từ việc truyền thông của Thiên Chúa Ba Ngôi” (Gặp gỡ các Giám mục năm 1998) phản ánh nơi kinh nghiệm của cuộc sống hàng ngày và phù hợp với kinh nghiệm đó. Một linh đạo như thế sẽ cùng một lúc mang các chiều kích ngang và dọc, cá nhân và cộng đoàn.
Nhà truyền thông là những người cần phát triển một linh đạo phát sinh từ kinh nghiệm sâu sắc của chính mình về tình yêu Thiên Chúa. Một sự dấn thân sâu xa để cảm nghiệm về Đấng trao sứ điệp (Thiên Chúa Ba Ngôi), sứ điệp (tình yêu của Thiên Chúa), và những cách thức làm “chứng tá” và chia sẻ sứ điệp này (việc truyền thông chính mình cũng như các kỹ năng giao tiếp) là những yếu tố cơ bản của linh đạo này (x. BM’98).
Những lãnh vực cần quan tâm đặc biệt trong việc truyền thông của chúng ta là:
Các cộng đồng Kitô hữu cơ bản, các cộng đồng Kitô hữu nhỏ, việc dạy giáo lý, Tông đồ Kinh thánh, các gia đình, phụ nữ, người lao động di dân, các thanh thiếu niên, việc huấn luyện linh mục – tu sĩ, và các sáng kiến đối thoại liên tôn;
Hoạt động xã hội và phát triển con người;
Huấn luyện và đào tạo các nhà truyền thông.
Một nhà truyền thông hiệu quả phải quen thuộc với tất cả các quan tâm trên. Họ nên sống một linh đạo truyền thông sâu sắc, và đồng hoá cách mạnh mẽ chính mình với Chúa Giêsu – “nhà truyền thông hoàn hảo” (Communio et Progressio, 11).
FABC- OSC: HỘI NGHỊ CÁC GIÁM MỤC LẦN THỨ 6
Tại Stanley, Hong Kong, 22―27 tháng 10, 2001
“NOVO MILLENNIO INEUNTE: Các Mối Quan Tâm của FABC – Các Thách Thức Truyền Thông – Các Văn Phòng FABC giới thiệu tầm nhìn và quan tâm của mình”
CÁC PHÁT BIỂU CHÍNH THỨC
Chúng tôi, 33 giám mục chủ tịch và thư ký của các Ủy Ban Truyền Thông Xã Hội của 12 quốc gia Châu Á và một số lãnh đạo của các tổ chức truyền thông Công Giáo đã họp lại với nhau cho Hội Nghị Giám Mục của FABC-OSC lần thứ 6 tại Hong Kong từ ngày 22 đến 27 tháng 10, 2001.
Sau khi được lắng nghe các mối quan tâm của các Văn Phòng FABC về Rao giảng Tin Mừng, Giáo Dân và Phát triển Con Người cũng như được nghe các đại biểu của Hội Đồng Kitô giáo Châu Á, và học hỏi Tông thư “Novo Millennio Ineunte”(“Trước Thềm Thiên Niên Kỷ Mới”) của Đức Thánh Cha, chúng tôi cống hiến các suy tư sau đây về việc tông đồ truyền thông của chúng ta trong thiên niên kỷ mới này.
Tinh thần của Trước Thềm Thiên Niên Kỷ Mới (Novo Millennio Ineunte―NMI) được diễn tả trong câu Tin Mừng duc in altum! (“Hãy ra chỗ sâu mà thả lưới”). Tông thư này là một lời kêu gọi canh tân đời sống, các thái độ, cơ cấu, phương pháp, chương trình và hoạt động để mở đường cho nhiệt tình mới, phương pháp mới và cách diễn tả mới hầu đạt hiệu quả cao hơn trong việc rao giảng Tin Mừng. Đây là một lời kêu gọi tới sự thánh thiện, một linh đạo sâu hơn, khắc phục các mối chia rẽ và các rào cản, đồng thời đối diện với các thách thức của các loại văn hoá đối kháng để đạt tới một linh đạo của tình hiệp thông.
Linh đạo này phát sinh từ một cách hiểu đúng đắn về Mầu Nhiệm Vượt Qua và mối quan hệ của Thiên Chúa Ba Ngôi được ban cho chúng ta một cách cụ thể nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, nghĩa là mầu nhiệm Thiên Chúa trở thành người trong con người Đức Giêsu Kitô. Nó thúc đầy chúng ta thi hành sứ mạng truyền giáo mà Đức Giêsu Kitô đã ủy thác cho chúng ta.
Ngoài nhiều điều khác, Tông thư NMI bao gồm việc phải đi xa hơn, lao mình vào hành động, có can đảm, sáng tạo, mạo hiểm, lắng nghe cũng như tìm ra các đường lối mới trong hoạt động tông đồ của chúng ta. Đây là một cuộc ra đi đặt nền trên đức tin và đức cậy. Nó đòi hỏi chúng ta thay đổi cách sống của mình bởi vì “không có Đức Kitô, chúng ta không thể làm được gì”―Ga 15:5 (NMI số 38).
Chúng ta được kêu gọi sống cuộc sống này trong bối cảnh đời sống hiện tại của mình, với sự hiểu biết đúng, thái độ đúng và các khả năng cần thiết cho việc truyền thông.
Các Thách thức Truyền thông
Trong bối cảnh Châu Á, thách thức truyền thông chủ yếu nằm ở chính con người của nhà truyền thông. Họ chấp nhận thập giá và tính dễ tổn thương của Thiên Chúa-làm người, và tránh mọi sự phô trương, đắc thắng và mơ hồ. Nhà truyền thông Kitô giáo phải trở thành một sứ giả đáng tin và thích hợp của Tin Mừng.
Chúng tôi nhận ra rằng trong lãnh vực rao giảng Tin Mừng, lãnh vực giáo dân và lãnh vực phát triển con người mà chúng tôi đã được nghe trình bày các mối quan tâm, các nhà truyền thông và các chuyên gia về các phương tiện truyền thông phải có một sự hiểu biết rõ ràng về các mối quan tâm và công việc của các văn phòng này của FABC, và phải xem xét các hệ luỵ đối với hoạt động của họ. Chúng tôi đặc biệt nhận ra các thách thức sau đây:
Các nhà truyền thông phải phát triển một linh đạo truyền thông sâu xa, ăn rễ sâu trong kinh nguyện, và biết noi gương Đức Giêsu Kitô, nhà truyền thông hoàn hảo (Hội Nghị Giám Mục ’98, số 1; Hội Nghị Giám Mục ’00, số 1). Để bắt được cá ở chỗ sâu, cần phải sống với Chúa.
Các nhà truyền thông trong Hội Thánh cần phải có một sự hiểu biết sâu xa hơn và những năng khiếu thích hợp trong việc phân tích các vấn đề về xã hội, chính trị, văn hoá, tôn giáo và đạo đức.
Các nhà truyền thông phải cổ vũ sự hiệp thông các cộng đồng (Xem “Một Cách Thức Hiện Diện Mới của Hội Thánh tại Châu Á,” Hội Nghị Giám Mục ’97; “Truyền thông Tình Yêu và Phục Vụ,” Hội Nghị Giám Mục ’00; NMI, 43t.)
Các nhà truyền thông cần phải trở thành tiếng nói của những người nghèo, những người bị bóc lột và bị loại trừ, hơn là tiếng nói của những người giàu, quyền thế và có ảnh hưởng (Hội Nghị Giám Mục ’97; Hội Nghị Giám Mục ’00).
Các nhà truyền thông phải cổ vũ phẩm giá và các quyền của con người, đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em; họ phải giải đáp các vấn đề về đạo đức, tôn giáo và đời sống thiêng liêng.
Các nhà truyền thông phải nhấn mạnh khía cạnh tốt hơn là khía cạnh xấu của các tin tức được cung cấp, và không được sợ hãi tố giác điều xấu (Hội Nghị Giám Mục ’97; Hội Nghị Giám Mục ’99).
Các nhà truyền thông phải cổ vũ việc giáo dục truyền thông, giúp đỡ dân chúng, đặc biệt giới trẻ, để họ biết sử dụng đúng đắn Internet, truyền hình, truyền thanh, in ấn và phim ảnh (xem Hội Nghị Giám Mục ’96, 5.4; Hội Nghị Giám Mục ’97, 5d).
Các nhà truyền thông phải cổ vũ các giá trị giúp kiện cường các mối quan hệ gia đình và sử dụng chúng như thứ thuốc giải độc chống lại bạo lực gia đình, khoảng cách giữa các thế hệ, các gia đình đổ vỡ, việc lạm dụng trẻ em (Hội Nghị Giám Mục ’99).
Các nhà truyền thông phải cổ vũ một sự tham dự ngày càng nhiều hơn của giáo dân trong đời sống và sứ mạng của Hội Thánh (Hội Nghị Giám Mục ’00).
Các nhà truyền thông phải khuyến khích mọi người trong Hội Thánh đề cao Đài Chân Lý Á Châu và các phương tiện quan trọng của hoạt động truyền giáo (Hội Nghị Giám Mục ’96).
Là một kế hoạch của FABC, Đài Chân Lý Á Châu phải thiết kế và thực hiện một phương pháp mới cho các chương trình và việc nghiên cứu thính giả. Nghiên cứu tính khả thi của việc đưa lại lên mạng Internet các chương trình phát sóng bằng tiếng Anh là việc rất đáng làm. Tiếng Anh đang mau chóng trở thành ngôn ngữ thống nhất tại Châu Á.
Các giáo huấn của Hội Thánh phải được quảng bá qua các phương tiện truyền thông, ví dụ, sử dụng các website, với một ngôn ngữ dễ hiểu đối với quần chúng (xem Hội Nghị Giám Mục ’96, số 5.2). Các nhà truyền thông Kitô giáo phải mời gọi giới trẻ giúp đỡ trong lãnh vực này.
Đào luyện truyền thông và đào tạo đặc biệt về các phương tiện mới cho các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân (xem BISCOM II; BISCOM III).
Các nhà truyền thông phải nối kết mạng với nhau và trao đổi thông tin đặc biệt trong các hoàn cảnh nguy kịch (xem Hội Nghị Giám Mục ’97).
Kết luận, chúng tôi khuyến nghị:
Giáo Hội phải đầu tư thêm nhân sự và tài chánh để đạt trình độ chuyên môn trong hoạt động truyền thông.
Tại Hội Nghị Giám Mục lần thứ 7 của FABC-OSC vào năm 2002, các phát biểu chính thức này phải được dùng làm cơ sở cho việc đánh giá và tường trình ở cấp quốc gia.
FABC- OSC: HỘI NGHỊ CÁC GIÁM MỤC LẦN THỨ 11
Tại Taytay, Rizal, Philippines từ ngày 20 đến 25 /11/ 2006
“VIỆC QUẢN TRỊ TRUYỀN THÔNG ĐỐI VỚI CÁC HĐGM”
TUYÊN BỐ CHUNG
Hội nghị về Truyền thông Xã hội của FABC về chủ đề “Việc Quản trị Truyền thông đối với các Hội Đồng Giám mục” được tổ chức tại Taytay, Rizal, Philippines từ ngày 20 đến 25 tháng 11 năm 2006. Các đại biểu HĐGM của 12 quốc gia châu Á khác nhau đưa ra những xem xét dựa trên các tài liệu quan trọng của GH. Các tài liệu về truyền thông xã hội của CĐ Vatican II như Inter Mirifica (1963, số 19-20; 21) và các Huấn thị Mục vụ tiếp theo là Communio et Progresssio (1971, số 170, 171-176) và Aetatis Novae (1992, số 19-23) đã yêu cầu các văn phòng Truyền thông cấp quốc gia của các HĐGM phải được tổ chức và duy trì. Những văn phòng Truyền thông cấp quốc gia này ngoài những hoạt động khác cần có sự quan tâm đối với cá nhân những người làm công tác truyền thông cũng như việc huấn luyện Truyền thông, lẫn việc lên kế hoạch để bảo đảm cho một chương trình được tổ chức tốt cho đất nước của họ. Họ cần phải có một phát ngôn viên và cung cấp những thông tin hai chiều xuyên suốt cả bên trong và bên ngoài các hội nghị của họ.
Các Giám mục và các tham dự viên suy tư sâu xa và nghiên cứu chi tiết hơn về vai trò – chức năng và nhu cầu của các Cơ quan Truyền thông này. Một lời mời gọi thức tỉnh về sự tấn công, những ảnh hưởng và những đòi hỏi của các nền văn hóa truyền thông mới nổi lên ở châu Á. Các tham dự viên cảm thấy một nhu cầu thiết yếu cần tạo điều kiện để các Giáo Hội tại Á Châu có thể đáp ứng những thách thức này.
Các tham dự viên cam kết sẽ thực hiện đầy đủ các yêu cầu do các tài liệu Giáo Hội đề ra và sẵn sàng đáp ứng các cơ hội được tạo ra bởi các phương tiện truyền thông mới và cuộc cách mạng nhanh chóng về truyền thông, sử dụng cách phù hợp các nguyên tắc Quản trị chiến lược đối với các phương tiện Truyền thông và các Hệ thống Truyền thông Liên kết.
Các Giám mục cũng suy tư và nghiên cứu về dữ liệu nguồn nhận từ các chuyên viên về truyền thông và quản trị, nhấn mạnh đến sự cần thiết phải “đàm thoại chiến lược và cho ‘điểm chuẩn’ đối với kết quả” hơn là chỉ sản xuất. Mô hình truyền thông một chiều, đi từ đỉnh xuống không còn phù hợp chút nào cho hôm nay, trong một thế giới ngày càng gia tăng sự tương tác hàng ngang và phẳng, hơn là hệ thống cấp bậc.
Thông tin liên lạc hôm nay cũng rút ra từ việc nghiên cứu và phương pháp khoa học, thay vì từ trực giác. Do đó, truyền thông xã hội thay vì chỉ lèo lái sứ điệp, cần tìm hiểu các nhu cầu, các mong đợi và các ưu tiên khác nhau của “những bên liên quan” như các Giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân và những người khác tín ngưỡng cũng như chính quyền dân sự. Điều này mời gọi việc nối mạng có hiệu quả ở các cấp độ khác nhau của Giáo Hội, bằng cách sử dụng Internet và các công cụ như e-mail, trò chuyện trên web, webinars, tin nhắn SMS, Podcasting và các phương tiện truyền thông xã hội khác. Cuộc họp GM hàng năm lần thứ 11 của các GM Á Châu đưa ra những đề nghị sau:
1. Tất cả các Hội Đồng Giám mục và các giáo phận cần phải chuẩn bị một kế hoạch mục vụ cho hoạt động truyền thông với một khung thời gian phù hợp và một viễn cảnh rõ ràng (clear vision) cũng như tuyên bố về sứ vụ (mission statement) phù hợp với vùng của họ.
2. Tất cả các Hội Đồng Giám mục và các giáo phận phải thiết lập một văn phòng truyền thông và chỉ định một người chuyên nghiệp làm toàn thời gian là giám đốc / người phát ngôn.
3. Các Giám mục cần phải bảo đảm rằng nhân sự được chỉ định cho văn phòng truyền thông và các hoạt động phải là người chuyên nghiệp, được huấn luyện chính quy và cam kết bảo đảm tính liên tục của công việc.
4. Những khoá hội thảo làm về truyền thông cần được tổ chức để làm nhạy bén và trang bị các giám mục, các vị lãnh đạo trong Giáo Hội, các chủng sinh và tu sĩ về những vấn đề liên quan đến truyền thông, sự khủng hoảng về truyền thông (bao gồm cả những cuộc phỏng vấn bất ngờ), và các phương tiện truyền thông khác liên hệ đến những cách tiếp cận và những vấn đề đang đặt ra.
5. Việc nối mạng cách thích hợp với những người làm công tác truyền thông thông qua các cuộc hội thảo, hội nghị, gặp gỡ nhau nên được tổ chức cách thường xuyên và không chỉ trong thời gian có nhu cầu hoặc khủng hoảng.
6. Cần có các chương trình hỗ trợ mục vụ cho các chuyên gia trong lãnh vực truyền thông.
7. Không nên lơ là các phương tiện truyền thông truyền thống như nghệ thuật dân gian, nghệ thuật biểu diễn, múa vũ, âm nhạc và kịch nghệ, nhưng cần xem xét và phát triển như các lựa chọn khác thay cho phương tiện truyền thông mới.
8. Cần cổ võ việc giáo dục Truyền thông cho các bậc phụ huynh, những người làm công tác mục vụ, tu sĩ và giáo dân, đặc biệt trẻ em và thanh niên.
9. Ngày Truyền thông Thế giới cần được xem như một cơ hội để xây dựng ý thức về các phương tiện truyền thông giúp nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của truyền thông xã hội và cách sử dụng các phương tiện truyền thông nói chung.
10. Một mạng lưới hiệu quả của các nhà Truyền thông Công giáo Châu Á nên được cổ võ để chia sẻ những thông tin có giá trị và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thuật lại câu chuyện của Chúa Giêsu.
11. Các GM, các nhà lãnh đạo GH và những người làm công tác truyền thông tại các Hội nghị cấp quốc gia và quốc tế cần phải thông truyền những kinh nghiệm đầy cảm hứng, những suy tư sâu sắc và những câu chuyện của họ với dân tộc của mình, với các giáo phận nơi họ sống và vượt ra bên ngoài nữa.
___________________________
FABC-OSC / HỘI NGHỊ CÁC GIÁM MỤC LẦN THỨ 12
Tại Bangkok, Thailand, 26/11 – 1/12/2007
“THÁNH THỂ NHƯ SỰ TRUYỀN THÔNG”
TUYÊN BỐ CHUNG
Chúng tôi, 35 tham dự viên của Cuộc họp Giám mục hàng năm lần thứ 12 năm 2007 đến từ 15 quốc gia, và bao gồm giám mục và các thư ký của các văn phòng / ủy ban truyền thông quốc gia, các chuyên gia và những người liên quan đến lãnh vực truyền thông xã hội, tập trung lại ở Bangkok, Thái Lan từ ngày 26 tháng 11 đến ngày 1 tháng 12, 2007. Chúng tôi suy tư và chia sẻ trên chủ đề “Thánh Thể như sự Truyền thông,” những thách thức và cơ hội cho Giáo Hội ở Châu Á.
Những trình bày sâu sắc của những nhà hoạt động liên quan đến truyền thông, thần học, phụng vụ, nhân chủng học, công tác mục vụ và những tôn giáo khác giúp đào sâu hơn những hiểu biết của chúng tôi về thực tại truyền thông của Thánh Thể. Việc chia sẻ nhiều sáng kiến sáng tạo và những dự án truyền thông xã hội do các thư ký văn phòng truyền thông quốc gia cho chúng tôi một cái nhìn toàn cảnh về các diễn đàn mới (areopagus) của thế giới truyền thông và sự dấn thân của Giáo Hội tại những phần khác của Á Châu. Cùng lúc, chúng tôi được thức tỉnh với những nhiệm vụ đầy thử thách chờ đợi chúng tôi.
Tất cả những điều này đã được thực hiện trong một bầu khí thánh thiện của việc đồng hành với Chúa Giêsu Thánh Thể, qua cử hành Thánh lễ và chầu Thánh Thể. Việc chúng tôi đến với nhau đã đóng góp cho một lòng nhiệt tình mới mẻ và sự cam kết giữa chúng tôi để đào sâu và sống Thánh Thể như “hình thức thân tình của sự hiệp thông và truyền thông có thể có được trong cuộc đời” (Communio et Progressio, số 11). Chúng tôi hy vọng rằng những cân nhắc và kinh nghiệm của chúng tôi sẽ tiếp tục hỗ trợ cho các thành viên của Hội nghị trong việc chuẩn bị cho cuộc hội thảo khoáng đại kế tiếp của FABC sẽ được tổ chức vào tháng Giêng năm 2009 về chủ đề “Sống Bí tích Thánh Thể tại Á Châu.”
Huấn thị Mục vụ “Communio et Progressio” (1971) thể hiện ý nghĩa sâu sắc của truyền thông như là “việc trao ban chính mình trong tình yêu” (số 11). Trong Bí tích Thánh Thể, “thời khắc cao điểm của truyền thông”, việc tự hiến của Chúa Giêsu trở thành một ân ban vĩnh cửu cho chúng ta và cho toàn thế giới cho đến tận cùng thời gian. Đó là hình thức thân tình nhất và sâu xa nhất cuả hiệp thông. Nếu truyền thông xã hội có thể được định nghĩa như “việc chia sẻ ý nghĩa thông qua các dấu chỉ,” thì việc chia sẻ ý nghĩa này sẽ trở thành một thực tế trong Bí tích Thánh Thể như một ân ban thần linh đối với chúng ta. Ý nghĩa của đời sống con người chỉ có thể được truyền thông cách tròn đầy trong mầu nhiệm của Chúa Giêsu Thánh Thể.
Bí tích Thánh Thể lôi kéo chúng ta vào chính sứ mạng của Chúa Giêsu: việc thông truyền ân ban thần linh của tình yêu. ĐGH Bênêđictô XVI nói với chúng ta, “Chúng ta không thể tiếp cận Bí tích Thánh Thể mà không bị lôi kéo vào trong sứ mạng, bắt đầu từ trái tim của Thiên Chúa, nghĩa là đến với tất cả mọi người” (Sacramentum Caritatis, số 84). Nhưng làm thế nào điều này có thể xảy ra mà không có sự truyền thông rộng rãi và phù hợp? Trong quá trình tìm kiếm và chia sẻ của chúng ta, chúng ta biện biệt một số định hướng cho sứ vụ truyền thông trong viễn ảnh của Bí tích Thánh Thể như là Sự Truyền thông.
Phụng vụ là hoạt động mang tính truyền thông diễn ra trong tâm điểm của cộng đoàn thông qua một loạt các dấu chỉ đa dạng, những biểu tượng, nghệ thuật và kiến trúc, âm nhạc, và ngôn ngữ cử chỉ. Thánh lễ là sự truyền thông tuyệt hảo nhất, với việc chia sẻ Lời Chúa và Thánh Thể như là yếu tố truyền thông cốt lõi. Điều này chảy tràn vào sự truyền thông với nhau trong cộng đoàn như một phần quan trọng và cần thiết của cộng đoàn Thánh Thể. Sự Hòa giải, chia sẻ và hoà bình là điều kiện tiên quyết cho sự hiệp thông như vậy. Nhìn những người khác như ‘người lạ’ vì phân biệt sắc tộc, giới tính, đẳng cấp, điều kiện kinh tế hay những yếu tố khác, đánh dấu sự cố đổ vỡ của truyền thông
Giáo Hội ở Châu Á, là một Giáo Hội nhập thể thật sự trong nền văn hóa châu Á (Ecclesia in Asia, số 24), nhu cầu truyền thông hỗ tương giữa các truyền thống tôn giáo và văn hóa Á châu, một mặt với ý nghĩa mang tính truyền thông sâu sắc hơn của việc chia sẻ của một bữa ăn, và mặt khác với các cộng đoàn Kitô hữu. Điều này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc khám phá hiệu quả hơn và sự sống của quyền lực truyền thông của Thánh Thể trong việc xây dựng sự hiệp thông, hòa bình và hòa hợp, như thế sẽ truyền thông khuôn mặt Á châu của Chúa Giêsu trong cộng đoàn Thánh Thể (Ecclesia in Asia, số 20).
Bữa ăn, như dấu chỉ của sự nối kết lẫn nhau với Thiên Chúa và với nhau, đang hiện diện cách đáng kể trong các nền văn hóa châu Á và mời gọi chúng ta phát triển cách hiệu quả điều này để cổ võ cho sự truyền thông thúc đẩy phát triển cộng đồng. Việc hội nhập văn hóa của Giáo Hội nói chung và của Bí tích Thánh Thể cách đặc biệt là yếu tố không thể thiếu trong sứ mạng truyền giáo của chúng ta tại Á Châu. Việc hội nhập văn hóa như vậy sẽ làm cho khuôn mặt Á châu của Chúa Giêsu trong lục địa này càng thêm sống động và hiện diện.
Sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện truyền thông mới có một tác động kinh khủng ảnh hưởng trên con người và đặc biệt là những người trẻ. Giáo Hội được mời gọi để khám phá những cơ hội mới và những phương cách truyền thông Tin Mừng, đặc biệt như là một cộng đoàn Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể đưa chúng ta đi vào một liên hệ thân tình với Tin Mừng, điều đó cần tìm một nơi chốn trổi vượt trong các phương tiện truyền thông mới của một thế giới hiện đại.
Các đề nghị:
1. Những kinh nghiệm của Bí tích Thánh Thể như là Sự Truyền thông phải phá đổ các rào cản của giai cấp, giới tính, tình trạng xã hội và dẫn cộng đoàn Kitô hữu đến sức mạnh biến đổi để xây dựng sự hiệp thong và chăm sóc tha nhân. Bí tích Thánh Thể phải dẫn đến sự hoà giải và phục hồi lại các mối tương quan đổ vỡ, chữa lành các chia rẽ như là những yếu tố cần thiết của một linh đạo truyền thông của Bí tích Thánh Thể.
2. Bí tích Thánh Thể như là Sự Truyền thông đem lại kết quả trong cộng đoàn, sự chia sẻ, hợp tác và tự trao ban trong phục vụ. Thế giới của chúng ta hôm nay bị đánh dấu bởi chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tiêu thụ, cạnh tranh và bạo lực. Tình hình đó cần phải vượt qua trong tinh thần của sự hiệp nhất Thánh Thể.
3. Những dấu chỉ và biểu tượng phổ biến của nền văn hóa Á châu tương thích với Tin Mừng và đức tin Kitô giáo như nghệ thuật địa phương, kiến trúc, ngôn ngữ và các giai điệu nên là thành phần của bầu khí và cử hành Thánh Thể, do đó chúng sẽ trở nên bằng chứng rằng Chúa Giêsu không đến để phá đổ nhưng làm cho cuộc sống chúng ta được kiện toàn viên mãn.
4. Những cử hành Thánh Thể như biến cố mang tính truyền thông phải giáo dục chúng ta trở thành những nhà truyền thông hiệu quả thông truyền các câu chuyện của Chúa Giêsu, Tin Mừng của tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa cho thế giới. Vì thế, các cử hành của chúng ta phải trở nên những thời khắc truyền thông mạnh mẽ trong cuộc sống của các cộng đoàn (x. Carlo Martini, “Truyền thông Đức Kitô cho Thế giới,” số 60).
5. Chúng ta cần phải kết hợp một linh đạo truyền thông Thánh Thể vào tất cả các kế hoạch mục vụ và chương trình huấn luyện như Kinh thánh, giáo lý, phụng vụ và các sáng kiến xã hội.
6. Những nhà huấn luyện ở tất cả các cấp trong Giáo Hội, đặc biệt trong các chủng viện, phải nhạy bén với chiều kích truyền thông của Thánh lễ, phụng vụ và việc sai đi của Giáo Hội.
7. Chiều kích truyền thông của Thánh lễ phải được suy nghĩ rtong các chăm sóc dành cho di dân, các nhóm thiểu số văn hóa hoặc ngôn ngữ, cũng như các nhóm anh em dân tộc. Các nhà Lãnh đạo Mục vụ nên phát triển một linh đạo đặc biệt và có một nền huấn luyện đặc biệt cho cách tiếp cận truyền thông như thế.
8. Từ kinh nghiệm “Thánh Thể như là Sự Truyền thông”, chúng ta nên quan tâm và tham gia tích cực trong các lễ hội địa phương và những tụ họp do những người thiện chí tổ chức để đóng góp cho hòa bình và hòa hợp giữa tất cả các dân tộc.
9. Kinh nghiệm của việc bẻ bánh cũng cần được suy tư khi chúng ta yêu thương tiếp cận với những người đau khổ xung quanh chúng ta.
10. BTTT như là Sự Truyền thông phải là một phương cách cách đặc biệt phản ánh những mong đợi, những tình huống, những vấn đề và nhu cầu của các nhóm đặc biệt như thanh niên, trẻ em, và người già.
11. Các phương tiện truyền thông hiện đại cần được sử dụng để đem những cử hành Thánh Thể đến cho những người bị cầm buộc trong nhà như những bệnh nhân và người cao tuổi, để phục vụ những nhu cầu tôn giáo và tinh thần của họ. (x. Sacramentum Caritatis, số 57).
FABC-OSC / HỘI NGHỊ CÁC GIÁM MỤC LẦN THỨ 13
Tại Nhà Tĩnh Tâm Dòng Salesian, Hua Hin, Thái Lan
17/11 – 22/11/2008
“Các Thách đố về Truyền thông đối với Hội đồng Giám mục”
TUYÊN BỐ CHUNG
Chúng tôi, 33 tham dự viên gồm giám mục Chủ tịch và thư ký của Ủy ban Truyền thông Xã hội của các HĐGM đến từ 14 quốc gia, cùng với Đức Tổng Giám mục Claudio Maria Celli, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông xã hội, tập trung tham dự Cuộc họp Giám mục hàng năm lần thứ 13 năm 2008, tại Hua Hin, Thái Lan, 17-22/11/2008 để thảo luận Chủ đề: “Các Thách đố về Truyền thông đối với Hội đồng Giám mục.”
Hội nghị đã ghi nhận sự tăng trưởng đột ngột của truyền thông khắp Á châu, biểu hiện trong việc mở rộng nhanh chóng và phổ biến của công nghệ, phát triển nhanh phương tiện truyền thông kỹ thuật số, truy cập điện thoại di động, internet và các phương tiện truyền thông khác. Hiện tượng này đã tác động đến mọi tầng lớp trong xã hội. Chúng tôi cũng lưu ý quan tâm đến sự gia tăng của trào lưu tôn giáo quá khích, việc đàn áp tự do tôn giáo, chủ nghĩa tương đối về đạo đức và mối lo lắng ngày càng tăng do khủng hoảng tài chính, mà mỗi đó đều có tác dụng đến việc truyền thông tự do và lành mạnh. Chính trong bối cảnh trên các tham dự viên cùng suy tư về chủ đề này.
Quan điểm chỉ đạo (Guiding Vision)
Các tham dự viên kiểm tra các tài liệu trong quá khứ và các ưu tiên về Truyền thông của Văn phòng Truyền thông xã hội dưới ánh sáng quan điểm của FABC. Trọng tâm nhắm đến của các giám mục Á châu là nuôi dưỡng “một cách hiện diện mới của Giáo Hội”, cụ thể là xây dựng sự hiệp thông và tính ngôn sứ của các cộng đoàn tín hữu trong việc đối thoại với các nền văn hóa và các tôn giáo của Châu Á gần gũi hơn với người nghèo. Chúng ta được gọi để trở nên một Giáo Hội lắng nghe, mở ra cho một bản giao hưởng của nhiều cung giọng. Chúng ta làm chứng cho niềm hy vọng bằng cách vượt qua mọi ranh giới và dấn thân vào những cách thức mới với lòng dũng cảm và sáng tạo.
Điểm mạnh
Chúng tôi nhìn nhận và hài lòng với những thành tựu của FABC-OSC trong 12 năm qua, việc gặp gỡ hàng năm để lập kế hoạch, chia sẻ và xây dựng sứ vụ truyền thông trong Giáo Hội tại Châu Á. Các cuộc họp thường xuyên báo cáo, nghiên cứu và suy tư về các chủ đề quan trọng và hợp thời đã cung cấp một lộ trình rõ ràng cho các sứ vụ truyền thông bằng cách truyền cảm hứng, định hướng và đề nghị. Các văn bản đó là những hoa quả của các cuộc họp này, cung cấp một nguồn tài nguyên thông tin phong phú cho các sứ vụ như giới trẻ, đối thoại liên tôn, đào tạo linh mục, gia đình, quan hệ công chúng, đối mặt với những thách đố của các công nghệ truyền thông mới và quản trị truyền thông trong và cho các Hội Đồng Giám mục các nước.
Những thách thức
Mặc dù có những thành tựu đáng khen ngợi, chúng tôi cảm thấy rằng chúng tôi vẫn còn một chặng đường dài phía trước để làm cho quan điểm và các ưu tiên này được thực hiện trong các giáo phận. Cũng cần xem xét đến sự kiện phụ nữ ở châu Á đang nổi bật lên như là các thành phần quan trọng trong lãnh vực truyền thông, cần phải đảm bảo một sự hiện diện tích cực hơn và sự tham gia của phụ nữ trong các sứ vụ của Giáo Hội.
Trong bối cảnh văn hóa kỹ thuật số đang phát triển, đặc trưng bởi thương mại hóa, chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tiêu thụ, tầm quan trọng của một việc huấn luyện tập trung hơn đến đạo đức truyền thông cần phải được nhấn mạnh.
Nhận thức được tầm quan trọng về mặt tâm linh của nhà truyền thông, cũng cần có một chương trình huấn luyện hiệu quả hơn về linh đạo truyền thông cho các cha sở và các vị mục tử trong Giáo Hội. “Truyền thông phải là một phần cốt yếu cho mọi kế hoạch mục vụ, vì nó có phần đóng góp mạnh mẽ cho mọi hoạt động tông đồ, mọi tác vụ và mọi chương trình khác”. (Aetatis Novae 17)
Nối mạng và các quan hệ công chúng giữa các sứ vụ truyền thông khác nhau trong các Hội đồng Giám mục, các cơ cấu cấp vùng, giáo phận, giáo xứ, cộng đoàn tu sĩ và các tổ chức khác là một thách thức quan trọng.
Nhu cầu nghiên cứu sâu hơn và lượng giá trong thế giới thay đổi nhanh chóng của các phương tiện truyền thông ngày càng mạnh mẽ. Cần nỗ lực nhiều hơn trong các hoạt động truyền thông để cổ võ cuộc đối thoại giữa đức tin và văn hóa, trao đổi liên văn hóa và nối mạng xã hội.
Có một nhu cầu phát triển một hình thức lãnh đạo mới, chú trọng nhiều hơn đến tiếng nói của giáo dân, đặc biệt là của phụ nữ và giới trẻ. Chúng ta đang chứng kiến sự chuyển đổi trọng tâm từ giáo xứ đến với cộng đồng rộng lớn hơn, và các phương tiện truyền thông cho phép các nhà truyền thông Công giáo khám phá những cách thức mới để tiếp cận những mạng lưới rộng lớn hơn của thế giới truyền thông. Các phương tiện truyền thông hiện đại, đặc biệt là Internet và các phương tiện truyền thông khác cần được sử dụng với hiệu quả lớn hơn. Đối thoại giữa đức tin và văn hóa không thể được đo lường chỉ bằng cách sử dụng âm nhạc phụng vụ và các vũ điệu châu Á, mà còn bởi các phương tiện in ấn, phim ảnh, văn học, kịch nghệ, nghệ thuật quần chúng và âm nhạc, giúp thể hiện các giá trị Kitô giáo đến với những xã hội dân sự.
Các đề nghị:
1. Chúng ta cần phát triển cách lãnh đạo phục vụ, trong đó chú ý hơn đến tiếng nói của giáo dân, đặc biệt là của các chuyên gia và phụ nữ trong các hoạt động truyền thông.
2. Chúng ta cần tạo nhiều cơ hội hơn cho giới trẻ và phụ nữ làm việc trong công tác truyền thông của các giáo xứ, trên các cấp giáo phận, khu vực và quốc gia trong tinh thần hợp tác.
3. Chúng ta cần cổ võ một kế hoạch mục vụ cho truyền thông xã hội, liên quan chặt chẽ đến các hoạt động khác để có được loại Truyền thông Công Giáo mang tính đối thoại, tương tác, đáng tin cậy và dễ nhìn thấy.
4. Chúng ta cần thực hiện việc nghiên cứu nghiêm túc hơn và các lượng giá để thấy rõ các nguồn lực, các thế mạnh, các điểm yếu, các cơ hội và hướng đi cho việc truyền thông của chúng ta.
5. Để làm chứng tá cho một cộng đồng rộng lớn hơn (thế tục), các phương tiện truyền thông của chúng ta có thể giúp cho các nhà truyền thông Công giáo khám phá những cách thức mới để đến với thế giới của truyền thông. Báo chí, phát thanh, truyền hình, Internet và truyền thông đa phương tiện phải được sử dụng với hiệu quả lớn hơn trong việc phục vụ cho hoạt động truyền giáo.
6. Chúng ta cần Phúc Âm Hóa nền văn hóa qua các phương tiện truyền thông bao gồm cả kịch nghệ, âm nhạc và các hình thức nghệ thuật quần chúng để thể hiện các giá trị Kitô giáo khi tiếp cận với xã hội dân sự.
7. Chúng ta cần thúc đẩy những nỗ lực lớn hơn để cổ võ việc trao đổi liên văn hóa và liên mạng xã hội thông qua sự tham gia cộng đồng của các phương tiện truyền thông địa phương, và chứng tá ngôn sứ bất cứ nơi nào có thể có thể nối kết liên tôn và với tín hữu của các tôn giáo khác.
8. Chúng ta nên tham gia nhiều hơn trong các thời kỳ xung đột và khủng hoảng, để mang lại chân lý theo quan điểm Công giáo cho các nạn nhân của các phương tiện truyền thông đại chúng.
9. Chúng ta cần phát triển chiến lược tài chính hiệu quả để thực hiện các kế hoạch mục vụ về truyền thông xã hội.
FABC-OSC / HỘI NGHỊ CÁC GIÁM MỤC LẦN THỨ 14
Tại Bali, Indonesia, 16/11 – 21/11/2009
“Truyền thông xã hội trong xã hội dân sự: Thách đố về luân lý đạo đức”
TUYÊN BỐ CHUNG
Chúng tôi, 37 tham dự viên của Cuộc họp Giám mục hàng năm lần thứ 14 năm 2009 đến từ 14 quốc gia, bao gồm các giám mục, nhà thần học, các chuyên gia về truyền thông và linh hoạt viên truyền thông đã gặp nhau tại Bali, Indonesia, từ ngày 16 đến ngày 21 tháng 11 để nghiên cứu chủ đề “Truyền thông xã hội trong Xã hội dân sự: Những thách đố về luân lý đạo đức.”
Việc hiện đại hóa tiệm tiến của Á châu trong 500 năm qua đã có một tác động đáng kể nhiều khía cạnh và mức độ của các xã hội của chúng ta. Điều này hiện nay đang đưa ra một động lực mới, với việc toàn cầu hoá lực lượng đang làm việc trong 50 năm qua, đặc biệt là với sự xuất hiện của Công nghệ thông tin truyền thông, như là trung tâm cho nhiều khía cạnh của cuộc sống hiện đại. Thay đổi trong chính sách thương mại thế giới và thay đổi quyền lực toàn cầu đang đẩy nhanh quá trình chuyển đổi của châu Á đến kịch bản toàn cầu. Trong thực tế, các chuyên gia đang nói rằng thế kỷ 21 là “thế kỷ Châu Á -Thái Bình Dương”.
Châu Á là một lục địa của sự đa dạng lớn lao và của đa số các nền văn hóa, truyền thống, tôn giáo và cộng đồng dân tộc. Châu Á hiện nay đang trải qua những tác động của thời hiện đại trong một phương cách rất kịch tính. Hiện tượng này cần được nghiên cứu kỹ hơn, cẩn thận hơn và đi sâu hơn. Trong khi chúng ta thừa nhận những đóng góp tích cực của toàn cầu hóa, chúng ta không thể bỏ qua những tiêu cực ảnh hưởng trên người châu Á và nhưng hàm ý về đạo đức của chúng.
Tiến trình toàn cầu hóa và hiện đại hóa đã tạo ra các cộng đoàn địa phương, nhận được giáo dục hiện đại tại nhiều nước. Họ kinh nghiệm cả “ngôi làng châu Á và ngôi làng toàn cầu”. Họ có khả năng hiểu biết về hoạt động của các khía cạnh khác nhau của xã hội các thấu đáo hơn. Thông qua công nghệ thông tin liên lạc hiện đại, chúng ta biết và hiểu được ý nghĩa của xã hội toàn cầu mang tính quốc tế của chúng ta. Chúng ta ngày càng trở nên có ý thức về đặc tính phổ quát và vận mệnh toàn cầu của chúng tôi.
Với sự thay đổi này, châu Á cũng nhìn thấy khả năng hồi sinh của một lực lượng mới trong xã hội và trong đời sống cộng đồng, cụ thể là Xã hội Dân sự. Cũng như tính hiện đại và các phương tiện truyền thông hiện đại đã ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân thuộc mọi tín ngưỡng, họ cũng trở thành những người đóng góp quan trọng cho lực lượng mới của Xã hội Dân sự.
Thuật ngữ “Xã hội Dân sự” có một loạt các ý nghĩa và sắc thái đối với những người đang sống, suy nghĩ và hành động trong các ngữ cảnh đa dạng và có sự hiểu biết của xã hội được định hình bởi các truyền thống khác nhau theo phân tích xã hội học. được lôi kéo về phía trước đối với những người có đầu óc thuộc các tín ngưỡng khác nhau, trong một cuộc tìm kiếm chung cho phẩm giá trọn vẹn hơn, cho công bằng xã hội và tự do thật sự, những nhà hoạt động trong các phong trào của xã hội dân sự đã gióng tiếng lên giữa các nhiễu âm chói tai của thời hiện đại, kéo theo các luật lệ và nguyên tắc, gần như những ngôn sứ của thời hiện đại. Nhiều người trong số họ đã bị ảnh hưởng, ở một mức độ nhiều hay ít, bởi những giá trị Tin Mừng và tư tưởng Kitô giáo.
Các Định hướng: Kinh doanh có sức mạnh kinh tế. Các chính phủ nắm quyền lực chính trị. Xã hội Dân sự sử dụng sức mạnh văn hóa để xây dựng các liên minh và tạo ra một sự đồng thuận về đạo đức. Như thế, nó đã tạo ra sự chuyển đổi đáng chú ý từ kiểu lãnh đạo độc tài đến sự cộng tác và nối mạng như một cách để lấy quyết định; từ loại trừ đế hòa nhập; từ sử dụng đến quản trị; từ tiêu thụ không hạn chế đến chia sẻ nguồn tài nguyên của thế giới một cách có trách nhiệm.
Những gì chúng ta đang chứng kiến làm nổi lên chiều kích nhân loại của cuộc sống trong sự bao la của một nền văn minh bất nhân và bị nhổ rễ, mà dường đang đánh mất cả căn tính và vận mệnh của nó. Giáo Hội không thể là một người quan sát dửng dưng trước các phong trào này, cũng như những hậu quả đạo đức và luân lý theo sau. Với tư cách là các Giám mục và những người dấn thân vào các hoạt động truyền thông xã hội và mục vụ, điểm nhấn của chúng tôi là “truyền thông cho xã hội con người và trong xã hội con người” mà Vatican II gọi là ‘Truyền thông Xã hội’. Mối quan tâm của chúng tôi đối với chân lý phải được đặt trọng tâm nơi việc xác định các giá trị đạo đức luân lý trong truyền thông xã hội. “Một nhà truyền thông có thể cố gắng để thông tin, để giáo dục, để giải trí, để thuyết phục, để an ủi, nhưng giá trị cuối cùng của bất kỳ loại truyền thông nào phải nằm trong tính trung thực của nó “ (Bênêđictô XVI, Bài nói chuyện với những người tham gia hội nghị về “Căn tính và sứ mạng của Khoa Truyền thông trong một trường Đại học Công giáo” được tổ chức bởi Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông xã hội, Rome, 23 Tháng 5 năm 2008).
Châu Á cần có một phương pháp tiếp cận mang tính đối thoại với các chuẩn mực luân lý trong cách mà nó trở nên dễ nắm bắt với mọi người không phân biệt những khác biệt về tôn giáo hoặc tư tưởng của họ. Là tín hữu, chúng tôi cảm thấy được mời gọi để dấn thân vào các phong trào trong Giáo Hội, cùng với các thành viên của xã hội dân sự, lấy cảm hứng từ những giáo huấn xã hội phong phú và mối quan tâm đạo đức của Giáo Hội. Do đó chúng tôi thấy điều cần thiết đối với các Kitô hữu là tham gia góp tay với các thành viên trong xã hội dân sự Á châu thời hậu hiện đại của thế kỷ 21. Dựa trên những gì kéo chúng ta lại với nhau hơn là những gì ngăn cách chúng ta, là Giáo Hội chúng ta phải mở rộng cửa hơn cho tất cả các dân tộc, các nền văn hóa và các tôn giáo, tham gia nhiều hơn với xã hội dân sự một cách có chọn lọc và qua một quá trình biện phân. Các giáo huấn của Giáo Hội về Truyền thông xã hội, được phản ánh trong các tài liệu truyền thông của FABC suốt 14 năm qua, cung cấp cho chúng tôi những hướng dẫn dễ hiểu trong viễn tượng này.
Giáo Hội có một công cuộc chung với các tổ chức phi chính phủ trong việc hỗ trợ nhu cầu ngày càng tăng trên khắp châu Á cho việc quản trị dân sự tốt, quyền được thông tin, sử dụng các công cụ quản trị điện tử từ công nghệ thông tin. Giáo Hội cũng chia sẻ với xã hội dân sự mối quan tâm cho việc hợp tác quản trị tốt và trách nhiệm xã hội chung lớn hơn trên một phần các công ty toàn cầu của phương Tây và mới đây của Á châu, mà cho đến nay chỉ tập trung vào việc tăng giá trị cổ đông, hơn là lợi ích các bên liên quan.
Các đề nghị:
1. Các Giám mục, với các Văn phòng truyền thông xã hội của họ, và đặc biệt các nhà thần học luân lý, cần nghiên cứu sâu hơn và đáp trả cho các khía cạnh luân lý và đạo đức của nền văn hóa truyền thông hiện đại (Redemptoris Mission, 37c) như sự phân chia kỹ thuật số, các quyền của trẻ em (Communio et Progressio, 67f) bảo mật và an ninh, truy cập và xử lý có phê phán và chuyển giao các công nghệ truyền thông, việc giáo dục truyền thông, quyền thông tin… (C.P., 33-45); họ phải nỗ lực hướng đến các tiêu chuẩn chuyên nghiệp đúng đắn và tìm kiếm sự thật (x. Miranda Prorsus; C.P.,17, 36f; Aetatis Novae, 6). Đối với điều này, các văn bản về luân lý của tài liệu truyền thông hiện tại của Giáo Hội phải được sử dụng như nguyên tắc chỉ đạo và bảng hướng dẫn cho các nghiên cứu, suy tư và hành động đi xa hơn.
2. Mỗi giáo phận cần phải xác định ý nghĩa của ‘xã hội dân sự’ trong môi trường địa phương của mình, đánh giá có phê phán các tiêu chí và mục đích của các phong trào xã hội dân sự khác nhau, và xác định đâu là các phong trào chân chính và đáng tin cậy. Chúng ta phải lường được giá trị của những nhân tố họ theo đuổi dưới ánh sáng của các giá trị Tin Mừng. “Tôi đến để thế giới có sự sống và sống dồi dào “(Ga 10:10). Một phân tích như thế tự nó có thể dẫn đến một tầm nhìn trực giác để trở thành động lực động viên thúc đẩy mọi người cùng chí hướng tham gia vào các phong trào xã hội dân sự.
3. Các nhà lãnh đạo trong Giáo Hội cần biểu lộ sự sẵn lòng hơn trong việc tham gia có chọn lọc với các nhóm xã hội dân sự. Giáo Hội tại châu Á phần lớn là thiểu số, nhưng vẫn tiếp tục dấn thân làm chứng cho Tin Mừng qua một cuộc đối thoại ba chiều với các tôn giáo, với các nền văn hóa và với người nghèo. Các thành viên đáng tin cậy của xã hội dân sự cung cấp những cơ hội Chúa ban cho Giáo Hội địa phương để chung tay với những người có khả năng và thiện chí; nhờ đó trở nên hợp thời với dân tộc họ hiện diện bằng cách chia sẻ những hiểu biết, những phương tiện và nguồn lực một cách bền vững. Sự hợp tác như thế có thể trang bị năng lực cho xã hội dân sự nhằm đóng một vai trò hiệu quả hơn; và đồng thời cho phép Giáo Hội ‘biểu lộ đức tin của mình thông qua hành động’ và phát huy những giá trị mà Chúa Giêsu Kitô công bố. “Chúng tôi cầu nguyện với Chúa Giêsu trong nhà nguyện, sau đó đi ra ngoài đường phố để tìm Chúa Giêsu trong điều đáng ghê tởm” (Mẹ Têrêsa). Tuy nhiên, điều quan trọng là phải đảm bảo rằng Giáo Hội tham gia vào tiến trình này sẽ không dừng ở mức chỉ là nhân viên xã hội hoặc một tổ chức phi chính phủ.
4. Các Giáo Hội địa phương cần phải chuẩn bị các thành viên của mình để phát triển nơi họ cảm thức về đạo đức trách nhiệm và đóng vai trò xứng đáng trong các phong trào xã hội dân sự thông qua các chương trình gây ý thức và huấn luyện thích hợp, sử dụng các giáo huấn xã hội và các tài liệu khác của Giáo Hội. Việc huấn luyện như vậy cần lưu ý đến các nguyên tắc đạo đức và các vấn đề hiện nay như sử dụng tín dụng vi mô, các nhóm tự giúp đỡ, sự phát triển bền vững, các vấn đề môi trường và tôn trọng các quyền của các thế hệ tương lai đối với các tài nguyên mà chúng ta sử dụng. Các tổ chức của Giáo Hội có thể học rất nhiều từ xã hội dân sự, đặc biệt là cách làm thế nào để kết hợp việc dấn thân với kỹ năng chuyên môn trong lãnh vực nghiên cứu, thu góp tài liệu và các số liệu thống kê nhằm cung cấp bằng chứng quan trọng để thúc đẩy tiến trình này.
5. Truyền thông Công giáo phải thuyết phục các Ủy ban, các nhóm khác nhau và các phong trào trong Giáo Hội địa phương về nhu cầu phát triển cảm thức đúng đắn của luân lý và trách nhiệm của người Kitô hữu cũng như việc hợp tác với xã hội dân sự.
6. Giáo Hội cần phải tạo ra một cảm thức về việc “liên kết chung” với xã hội dân sự để giảm nhẹ đau khổ của người dân trong xã hội, như đã được chứng kiến cách đặc biệt trong những thiên tai. Việc chia sẻ khả năng, chuyên môn và nguồn lực của chúng ta với những người làm việc để trao quyền cho những người thiệt thòi trong xã hội, sẽ là sự nối dài của Bí tích Thánh Thể – sống cùng với con người, bước đi với họ, tham gia vào một cuộc đối thoại được gợi hứng bởi Chúa Thánh Thần để nên một với họ.
7. Bất cứ nơi nào cần thiết, Giáo Hội địa phương nên phát huy các tổ chức phi chính phủ của mình để đưa ra các vấn đề lớn của xã hội, quan tâm giữ một khoảng cách thích hợp với mình, nhưng vẫn đem đến tính cách Kitô giáo và Công giáo đặc thù cho cách làm việc của họ.