Tin thì được sống
15.4 Thứ Năm Tuần II Phục Sinh
– Các bài đọc Lời Chúa: Cv 5,27-33; Ga 3,31-36.
Tin thì được sống
Trong hành trình tìm kiếm nguồn hạnh phúc đích thực trên trời, nhân loại may mắn gặp được người chứng thực. Người này không phải chỉ chứng thực mà thôi, nhưng đã sống từ đầu, và người ấy chính Chúa Giêsu.
Khi nói về Thiên Chúa Cha và những sự trên trời, thì chẳng ai bằng Chúa Giêsu. Vì những điều Ngài nói, Ngài đã không lấy từ một nguồn tài liệu nào cũng chẳng do ai kể lại, nhưng là những gì mà Ngài đã sống, vì ngoài Ngài ra chưa một ai được lên trời.
Ta thấy Nếu không có mầu nhiệm cứu chuộc thì mãi mãi đất trời xa cách và nhân loại vẫn luôn khao khát đợi chờ. Thiên Chúa đã đoái thương trông đến những sự cùng cực khổ sở của nhân loại, Ngài đã bắc một nhịp cầu nối liền trời với đất để cho con người hạ giới được no thỏa niềm vui thiên quốc.
Tiếp nối trang Tin Mừng hôm qua, Tin Mừng hôm nay cũng trình bày cho con người về tình yêu thương ấy. Thật vậy, để tìm đến cội nguồn sự thật của một công việc hay một biến cố, luôn luôn cần đến những người đã nghe và đã thấy, vì họ là những người đã được chúng kiến.
Tòa án cần nhiều chứng để việc xét xử được trung thực. Khế ước cần nhiều người chứng để công việc được minh bạch và bảo đảm. Lời nói của người làm chứng càng giá trị khi họ là những người theo dõi sự việc suốt từ đầu đến cuối, và chính bản thân họ là những người trực tiếp đến sự việc chứ không qua trung gian một ai khác.
Tin Mừng hôm nay là một trích đoạn nói về cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với ông Nicôđêmô. Khi Chúa Giêsu lên Giêrusalem mừng Lễ Vượt Qua, có đám đông dân chúng đi theo hò reo chào đón và chen chúc nhau để nghe Người giảng dạy.
Thấy vậy, các tư tế Đền Thờ, nhóm Pharisêu và các quan chức Dothái tỏ ý ghen ghét chống đối. Thế nhưng trong số họ có ông Nicôđêmô một người Pharisêu là thành viên của Thượng Hội Đồng đã âm thầm tìm đến gặp gỡ Chúa Giêsu vào ban đêm. Ông yêu thích giáo lý và cách giảng dạy của Đức Giêsu nên đã gọi Người là “Thầy” và trân trọng tuyên xưng niềm tin của mình rằng: “Tôi biết Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả vậy, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy” (Ga 3, 2).
Là một thủ lãnh Dothái, chắc hẳn ông Nicôđêmô ít nhiều cũng am tường lề luật phong tục Dothái và những mặc khải của Thiên Chúa trong Kinh Thánh, thế nhưng ông cảm thấy rất khó hiểu với việc sinh ra trong Thần Khí vì ông đang sống trong tình trạng “đêm tối đức tin”. Đức Giêsu tiếp tục dùng Kinh Thánh gợi mở khơi sáng niềm tin cho ông biết vì yêu thương loài người nên Thiên Chúa đã sai sứ giả đến nói cho họ biết có một Đấng dẫn họ tới nguồn sống hạnh phúc: “Đấng được sai đi thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn. Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người. Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời” (c. 34-36a).
Ngay ở đầu sách Tin Mừng, thánh Gioan đã tuyên bố: không ai thấy Thiên Chúa bao giờ cho đến khi Chúa Giêsu được sinh xuống trần gian. Mặc dù trong Cựu ước có một số người đã được thấy Thiên Chúa: “Họ đã thấy Thiên Chúa của Israel. Họ được chiêm ngưỡng Thiên Chúa” (Xh 24, 10-11). Theo cách nhìn của Gioan, Đức Giêsu chính là mặc khải trọn vẹn về Chúa Cha, vì thế người nào tin nhận Đức Giêsu thì sẽ nhận biết Thiên Chúa. Hay nói cách khác, mặc khải của Thiên Chúa đạt đến tột đỉnh và viên mãn nơi Chúa Giêsu Kitô. Trong Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã ban chính Ngài cho dân và làm cho mặc khải của Ngài đạt đến mức viên mãn.
Lời nói của Chúa Giêsu không những bảo đảm về sự thật Nước Trời mà còn ban Nước Trời cho những ai đón nhận và tin vào lời Ngài, vì Ngài là Thiên Chúa: “Cha yêu mến Con nên đã ban mọi sự trong tay Ngài”. Bởi thế, lời của Chúa Giêsu không đơn thuần chỉ trình bày chân lý, nhưng còn đòi hỏi phải tin và sống theo. Nếu không mãi mãi mang lấy hình phạt.
Một dịp may đã đến với Nicôđêmô, ông đã gặp được chính Ðấng từ trời xuống để nói về trời. Tuy nhiên, ông chưa được gọi là môn đệ Ðức Kitô, vì ông chưa tin.
Hôm nay, Kitô hữu cũng có một may mắn như Nicôđêmô là được gặp gỡ và hiểu biết về Ðức Kitô. Hệ luận của sự gặp gỡ này là: nếu không tin và không sống điều đã lãnh nhận thì sẽ không được sống đời và phải nằm dưới cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay một lần nữa cho chúng ta hiểu rõ ý nghĩa và giá trị của phép Rửa tội, đây là cửa ngõ dẫn chúng ta vào đời sống hạnh phúc viên mãn nơi Thiên Chúa. Vì thế trước khi lãnh bí tích Rửa tội, vị linh mục thay mặt Hội Thánh hỏi chúng ta xin điều gì? Và chúng ta đáp lại: – Xin ơn đức tin. Đức tin đem lại cho chúng ta điều gì? Thưa: – Đức tin đem lại sự sống đời đời. Từ giây phút ấy trong lòng Giáo Hội, chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa. Đây không phải là sự tình cờ hay ngẫu nhiên nhưng là hồng ân huyền nhiệm đến từ tình thương của Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta chỉ là hạt bụi vô thường nhỏ bé, nhờ tình thương, Thiên Chúa đã biến chúng ta thành vì sao lấp lánh. Nếu Thiên Chúa không yêu thương, mãi mãi chúng ta chỉ là “cô bé lọ lem” chốn quê mùa. Nhờ tình thương Thiên Chúa, đời chúng ta có một cuộc thay đổi kỳ diệu là được vinh phúc sánh duyên cùng Thiên Tử. Ân sủng và tình thương của Thiên Chúa phủ lấp muôn vàn tội lỗi, cho chúng ta bước ra khỏi vũng lầy nhơ uế để vào miền linh thánh sạch trong. Một nhà tâm lý học thật có lý khi nhận xét ‘con người là con vật tâm thần suốt đời thèm khát sự trìu mến, thèm khát tình yêu và hạnh phúc’. Chúng ta chỉ có được tình yêu và hạnh phúc đích thực khi đặt trọn niềm tin nơi Thiên Chúa.