Piano Piano
Nội dung

Piano Piano

 

 

Có một câu tục ngữ Ý, giàu vần điệu, được coi là một nguyên lý sâu sắc cho đời sống tâm linh. Câu nói ấy là: “chi va piano, va sano, e va lontano,” nghĩa là “ai đi chậm, đi khỏe, và đi xa.” Ở dạng ngắn gọn hơn, người ta nói “piano piano si va lontano” – “từng bước một, người ta sẽ đi được một chặng đường dài.” Câu tương đương trong tiếng Anh là “chậm mà chắc sẽ thắng cuộc,” gợi lại câu chuyện ngụ ngôn của Aesop.

Những câu nói này nhắc nhở chúng ta về sự kiên nhẫn và bền bỉ trong cuộc sống, giữa bao nhiêu điều xao lạc. Chúng khuyến khích ta dành thời gian để làm mọi việc một cách cẩn thận, tránh sự vội vàng. Đồng thời, chúng giúp ta quay lại với hiện tại, thay vì lo lắng về những điều chưa đến, và tập trung vào những việc nhỏ bé mà ta có thể làm ngay hôm nay. Theo cách này, triết lý “piano piano” trở thành một người bạn đồng hành quý giá trong hành trình trưởng thành của đời sống Kitô giáo. Bởi lẽ, dù ta không thể làm gì nếu thiếu Chúa và ân sủng của Ngài; với sự giúp đỡ của Ngài, chúng ta được mời gọi hành động trong từng khoảnh khắc, xuất phát từ tình yêu đối với Ngài và với tha nhân.

Để giúp tiếp nhận tư tưởng “piano piano,” chúng ta có thể tìm đến “il Papa Buono,” Thánh Gioan XXIII[1]. Là một người Ý thông thái, ngài hiểu rằng không cần lo lắng quá nhiều về ngày mai, mà thay vào đó, ta cần tập trung vào hiện tại và những việc thiện nhỏ bé có thể thực hiện ngay lúc này. Chính vì lý do đó, ngài đã viết ra những điều mà ngày nay được biết đến như “mười điều răn hàng ngày,” trong đó ngài khuyên rằng:

1. Chỉ hôm nay, tôi sẽ sống trọn vẹn từng khoảnh khắc của ngày với tâm thế tích cực, không mong muốn giải quyết tất cả các vấn đề trong cuộc đời mình ngay lập tức.

2. Chỉ hôm nay, tôi sẽ chăm chút cẩn thận cho ngoại hình của mình: tôi sẽ ăn mặc giản dị, không lớn tiếng; tôi sẽ hành xử lịch thiệp, không chỉ trích ai; tôi sẽ không yêu cầu cải thiện hay uốn nắn ai ngoài chính bản thân mình.

3. Chỉ hôm nay, tôi sẽ sống trong niềm vui, với niềm tin chắc chắn rằng tôi được tạo ra để hạnh phúc, không chỉ ở đời sau mà ngay cả trong cuộc sống này.

4. Chỉ hôm nay, tôi sẽ thích ứng với hoàn cảnh, mà không yêu cầu hoàn cảnh phải thay đổi để phù hợp với ý muốn của mình.

5. Chỉ hôm nay, tôi sẽ dành 10 phút để đọc một cuốn sách hay, nhớ rằng giống như cơ thể cần thức ăn để duy trì sự sống, tâm hồn cũng cần những trang sách hay để nuôi dưỡng.

6. Chỉ hôm nay, tôi sẽ làm một việc tốt và không tiết lộ cho ai biết.

7. Chỉ hôm nay, tôi sẽ làm ít nhất một việc mà tôi không thích làm; và nếu cảm xúc của tôi bị tổn thương, tôi sẽ đảm bảo rằng không ai nhận thấy.

8. Chỉ hôm nay, tôi sẽ lập một kế hoạch cho bản thân: tôi có thể không hoàn toàn tuân theo nó, nhưng tôi sẽ lập ra một kế hoạch. Và tôi sẽ luôn cảnh giác với hai điều xấu: vội vàng và do dự.

9. Chỉ hôm nay, tôi sẽ kiên định tin rằng, bất chấp mọi vẻ bề ngoài, sự quan phòng của Thiên Chúa luôn chăm sóc tôi như không ai khác trong thế gian này.

10. Chỉ hôm nay, tôi sẽ không để nỗi sợ hãi chi phối. Cụ thể, tôi sẽ không sợ tận hưởng những điều đẹp đẽ và tin tưởng vào điều thiện. Trong 12 giờ, tôi chắc chắn có thể làm những điều mà nếu nghĩ rằng mình phải làm suốt đời, có thể khiến tôi lo âu.

Khi cuộc sống bận rộn và đầy lo âu cuốn ta đi, chúng ta sẽ có lợi rất nhiều nếu lắng nghe lời dạy của Đức Thánh Cha Gioan XXIII và bắt đầu thực hành những hành động nhỏ hàng ngày của ngài. Có thể hôm nay, chúng ta chỉ cần chọn một việc và làm thật tốt. Hãy dành thời gian cho bản thân. Nhớ rằng, piano piano si va lontano.

 

[1] Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII tên khai sinh là Angelo Giuseppe Roncalli, sinh ngày 25 tháng 11 năm 1881, tại Sotto il Monte, thuộc giáo phận và tỉnh Bergamo. Là con thứ tư của gia đình, ngài được rửa tội cùng ngày. Dưới sự dìu dắt của vị Linh Mục chính xứ xuất chúng, Cha Francesco Rebuzzini, ngài được đào tạo sâu sắc về phương diện Giáo Hội, một sự đào tạo sẽ nâng đỡ ngài trong lúc khó khăn và gợi hứng cho ngài trong các công tác tông đồ.

Ngài được thêm sức và rước lễ lần đầu năm 1889 và gia nhập chủng viện Bergamo năm 1892.

Từ năm 1901 tới năm 1905, ngài theo học Giáo Hoàng Chủng Viện Rôma, nơi ngài được giáo phận Bergamo cấp học bổng cho các sinh viên ưu tú. Trong khoảng thời gian này, ngài hoàn tất một năm nghĩa vụ quân sự. Ngài được truyền chức Linh Mục ngày 10 tháng 8 năm 1904 ở Rôma, tại nhà thờ Santa Maria in Monte Santo in Piazza del Popolo. Năm 1905, ngài được cử làm thư ký cho tân Giám Mục của giáo phận Bergamo, là Đức Cha Giacomo Maria Radini Tedeschi. Ngài giữ vai trò này cho tới năm 1914, tháp tùng Đức Cha đi thăm viếng mục vụ và tham gia nhiều sáng kiến mục vụ khác như hội đồng Giám Mục, viết xã luận cho nguyệt san giáo phận tên là La Vita Diocesana (Sinh Hoạt Giáo Phận), đi hành hương và nhiều công trình xã hội khác nhau. Ngài cũng dạy các môn lịch sử, giáo phụ học và hộ giáo tại chủng viện. Năm 1910, khi duyệt lại quy chế của Công Giáo Tiến Hành, Đức Cha giáo phận trao cho ngài việc chăm sóc mục vụ cho các phụ nữ Công Giáo (phân bộ V). Ngài thường xuyên viết cho nhật báo Công Giáo của giáo phận Bergamo. Ngài cũng là một diễn giả cần mẫn, sâu sắc và hữu hiệu.

Khi Ý tham chiến vào năm 1915, ngài bị gọi thực hành nghĩa vụ quân sự trong tư cách trung sĩ quân y. Một năm sau, ngài trở thành tuyên úy quân đội, phục vụ tại các bệnh viện quân sự tại hậu phương, và phối hợp việc chăm sóc thiêng liêng và luân lý cho các binh sĩ. Lúc chấm dứt chiến tranh, ngài mở một Cư Xá Cho Các Sinh Viên và chính ngài cũng phục vụ làm tuyên úy cho sinh viên. Năm 1919, ngài được cử làm linh hướng cho chủng viện.

Năm 1921 đánh dấu giai đoạn hai trong cuộc đời của ngài: phục vụ Tòa Thánh. Được Đức Bênêđíctô XV triệu về Rôma làm chủ tịch hội đồng trung ương Hội Truyền Bá Đức Tin của Ý, ngài đi thăm nhiều giáo phận và nhiều giới truyền giáo có tổ chức của Ý. Năm 1925, Đức Piô XI cử ngài làm Khâm Sứ Tòa Thánh tại Bulgaria, nâng ngài lên chức Giám Mục, hiệu tòa Areopolis. Ngài chọn khẩu hiệu Giám Mục là “Oboedentia et Pax” (“Vâng Lời và Bình An”), một khẩu hiệu được dùng làm chương trình cho đời ngài.

Được phong chức Giám Mục ngày 19 tháng 3, năm 1925, ngài tới Sophia ngày 25 tháng 4. Sau đó, được cử làm Đại Diện Tòa Thánh đầu tiên tại Bulgaria, Đức Tổng Giám Mục Roncalli tiếp tục phục vụ tại đây cho tới năm 1934.

Ngày 27 tháng 11 năm 1934, Ngài được cử làm Đại Diện Tòa Thánh tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp. Ngày 6 tháng 12 năm 1944, ngài được Đức Piô XII cử làm Sứ Thần Tòa Thánh tại Paris.

Ngày 12 tháng 1 năm 1953, ngài được tấn phong Hồng Y và ngày 25 tháng 1, ngài được cử làm Thượng Phụ Venice.

Sau khi Đức Piô XII qua đời, ngài được bầu làm Giáo Hoàng ngày 28 tháng 10 năm 1958, lấy tên là Gioan XXIII. Trong 5 năm làm Giáo Hoàng, ngài xuất hiện với thế giới như là hình ảnh đích thực của Người Chăn Chiên Tốt Lành.

Khiêm nhường và hiền lành, tháo vát và đảm lược, đơn sơ và luôn tích cực, ngài đảm nhiệm nhiều công trình bác ái phần xác và phần hồn, thăm viếng tù nhân và người bệnh, chào đón người thuộc mọi quốc gia và tôn giáo, biểu lộ một cảm thức phụ tử tuyệt diệu với mọi con người. Huấn quyền xã hội của ngài chứa đựng trong thông điệp Mẹ và Thầy (1961) và Hoà Bình Trên Trái Đất (1963).

Sự nghiệp lớn lao nhất có tầm mức ảnh hưởng đến cả thế giới hôm nay và mai sau là vấn đề Ngài triệu tập Công Đồng Rôma, thiết lập Ủy Ban Duyệt Xét Bộ Giáo Luật, và nhất là triệu tập Công Đồng Vatican II.

Là Giám Mục Rôma, ngài đi thăm các giáo xứ và các nhà thờ trong trung tâm lịch sử và các khu ngoại thành. Nơi ngài, dân chúng nhận ra sự phản ảnh của benignitas evangelica (lòng nhân hậu của tin mừng) nên đã gọi ngài là “vị Giáo Hoàng nhân hậu”. Một tinh thần cầu nguyện sâu sắc luôn nâng đỡ ngài. Là sức mạnh lèo lái đứng đàng sau phong trào canh tân Giáo Hội, ngài nhập thân sự bình an của một người luôn tín thác hoàn toàn nơi Chúa. Ngài cương quyết tiến bước trên con đường Phúc Âm hoá, đại kết và đối thoại, và biểu lộ một quan tâm phụ tử muốn vươn tay ra cho tất cả những con cái cơ cực nhất.

Ngài qua đời tối ngày 3 tháng 6 năm 1963, ngày Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, trong một tinh thần phó thác sâu xa cho Chúa Giêsu, tha thiết được nằm trong vòng tay Người, và được bao bọc bằng lời cầu nguyện của toàn thế giới; dường như cả thế giới đang quây quần cạnh giường ngài để cùng ngài thở hơi thở yêu thương Chúa Cha.

Đức Gioan XXIII được Đức Gioan Phaolô II tuyên chân phúc ngày 3 tháng 9 năm 2000 tại Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô, trong Đại Năm Thánh 2000. Ngày 27.4.2014, tại Rôma, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tuyên thánh cho Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII.

Thánh lễ tuyên phong đã được cử hành bởi đương kim Giáo hoàng Phanxicô (với Giáo hoàng danh dự Bênêđictô XVI đồng tế), vào Chủ nhật ngày 27 tháng 4 năm 2014 tại Quảng trường thánh Phêrô, Vatican, Rôma, trong sáng Chủ nhật Lòng Chúa Thương xót - Chủ nhật thứ hai trong Mùa Phục Sinh, kết thúc Tuần Bát nhật.

Tác giả: Đức Hữu chuyển ngữ

Nguồn tin: catholicexchange.com

Chi tiết