2022
Chúa Nhật XXIV Thường Niên – Năm C
Chúa Nhật XXIV Thường Niên – Năm C
Ca nhập lễ
Lạy Chúa, xin ban bình an cho những ai trông cậy vào Chúa, xin cho các tiên tri của Chúa được trung trực; xin nhậm lời cầu nguyện của tôi tớ Chúa, và của Is-ra-el dân Chúa.
Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến! Cả ba bài đọc Chúa Nhật XXIV thường C hôm nay, Hội Thánh cho chúng ta một cái nhìn về Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Thật thế, trong bài đọc I khi dân Do Thái đúc bò vàng để tôn thờ như Thiên Chúa của mình, chính ông Moisen cũng nổi giận khi xuống núi thấy cảnh tượng ấy và ông đã đập bể Bia Đá, thế mà chỉ một lời cầu xin của ông “Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Ngài đe dọa phạt dân”( Xh.32,14).
Qua bài đọc II Thánh Phaolô tông đồ cũng chứng tỏ Thiên Chúa là Đấng thương xót khi Ngài nói “dù trước kia cha là kẻ phạm thượng, bắt bớ và kiêu căng nhưng cha được Thiên Chúa thương xót” (lTim.l,13a). Đến bài Tin Mừng Chúa Giêsu đưa ra ba dụ ngôn để diễn tả lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy mở lòng đón nhận lời yêu thương và ơn thánh của Chúa hôm nay, và hãy hối hận vì chúng ta chưa biết sống yêu thương, tha thứ và nhân ái với anh chị em.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa là Ðấng sáng tạo và điều khiển muôn loài, xin nhìn đến chúng con và cho chúng con biết tận tình thờ phượng Chúa, hầu luôn được cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương. Chúng con cầu xin…
Bài Ðọc I: Xh 32, 7-11. 13-14
“Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân Người”.
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê rằng: “Ngươi hãy đi xuống; dân mà ngươi dẫn ra khỏi đất Ai-cập đã phạm tội. Chúng đã sớm bỏ đường lối Ta đã chỉ dạy cho chúng, chúng đã đúc tượng bò con và sấp mình thờ lạy nó; chúng đã dâng lên nó của lễ hiến tế và nói rằng: “Hỡi Israel, này là Thiên Chúa ngươi, Ðấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập”. Chúa phán cùng Môsê: “Ta thấy rõ dân này là một dân cứng cổ. Ngươi hãy để Ta làm, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ với chúng và sẽ huỷ diệt chúng, rồi Ta sẽ làm cho ngươi trở nên tổ phụ một dân tộc vĩ đại”.
Môsê van xin Chúa là Thiên Chúa của ông rằng: “Lạy Chúa, tại sao Chúa nổi cơn thịnh nộ với dân mà Chúa đã dùng quyền lực và cánh tay hùng mạnh đưa ra khỏi đất Ai-cập? Xin Chúa nhớ đến Abraham, Isaac và Israel tôi tớ Chúa, vì chính Chúa đã thề hứa rằng: “Ta sẽ làm cho con cháu các ngươi sinh sản ra nhiều như sao trên trời. Ta sẽ ban cho con cháu các ngươi toàn cõi xứ này như lời Ta đã hứa, và các ngươi sẽ chiếm hữu xứ này mãi mãi”. Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân Người.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 12-13. 17 và 19
Ðáp: Tôi sẽ chỗi dậy và đi về cùng cha tôi (Lc 15, 18).
Xướng: Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác.
Xướng: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.
Xướng: Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát, lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung.
Bài Ðọc II: 1 Tm 1, 12-17
“Ðức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian để cứu độ những người tội lỗi”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Cha cảm tạ Ðấng đã ban sức mạnh cho cha là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì Người đã kể cha là người trung tín, khi đặt cha thi hành chức vụ: dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót, vì cha vô tình làm những sự ấy trong lúc cha chưa tin. Nhưng ân sủng của Chúa chúng ta đã tràn lan dồi dào cùng với đức tin và đức mến trong Ðức Giêsu Kitô.
Lời nói chân thật và đáng tiếp nhận mọi đàng là: Ðức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất. Vì thế, cha được hưởng nhờ ơn thương xót, là Ðức Giêsu Kitô tỏ ra tất cả lòng khoan dung trong cha trước hết, để nêu gương cho những ai sẽ tin vào Người hầu được sống đời đời.
Danh dự và vinh quang (xin dâng về) Thiên Chúa độc nhất, hằng sống, vô hình, là Vua muôn đời. Amen!
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 15, 1-10 {hoặc 1-32}
“Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng”.
Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: “Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: “Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!” Cũng vậy, Tôi bảo các ông: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.
“Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: ‘Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất’. Cũng vậy, Tôi bảo các ông: Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”.
{Người lại phán rằng: “Người kia có hai con trai. Ðứa em đến thưa cha rằng: ‘Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con’. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả tiền của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của, thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó muốn hồi tâm lại và tự nhủ: “Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: ‘Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha’. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: ‘Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa’. Nhưng người cha bảo các đầy tớ: ‘Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy’. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.
“Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: ‘Ðó là em cậu đã trở về và cha cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ’. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào. Nhưng anh trả lời: ‘Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn, còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó’.
“Nhưng người cha bảo: ‘Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy’”.}
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tín hữu
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Khi chúng ta sa ngã. Chúa ban ơn thánh nâng đỡ chúng ta chỗi dậy. Khi chúng ta xa lìa Chúa, Chúa chờ đợi chúng ta trở về… Với tâm tình của một người con yếu đuối, chúng ta dâng lên Thiên Chúa những ý nguyện sau đây :
- 1. “Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Ngài đe dọa”– Xin cho mọi người biết ăn năn thông hối và đổi mới cuộc đời của mình, để xứng đáng lãnh nhận nguồn hồng ân Thiên Chúa ban cho.
- “Đức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian để cứu độ những người tội lỗi ”– Xin cho hàng Giáo sĩ và các Kitô hữu biết quan tâm và năng lãnh nhận Bí tích Hòa Giải, để góp phần làm cho Hội Thánh ngày càng thăng tiến và thánh thiện.
- 3. “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”– Xin cho những người đang sống trong bế tắc, thất vọng, bệnh tật, khổ đau và bất hạnh, biết đặt trọn niềm tin vào Chúa là Cha nhân từ và tìm được nguồn ủi an nơi chính Ngài.
- 4. “Ông chạy lại ôm choàng lấy nó và hôn nó hồi lâu ” –Xin cho các tín hữu đã qua đời được hưởng lòng từ bi và thương xót của Chúa.
Chủ tế: Chúa phán : “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”. Xin Chúa cho mỗi người chúng con qua sự cầu nguyện liên lỉ, qua công tác tông đồ và qua những việc làm bác ái chúng con, sẽ lôi kéo nhiều anh chị em trở về với Chúa và Giáo Hội. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin nghe lời chúng con cầu nguyện và thương nhận những lễ vật này để hiến lễ mỗi người chúng con dâng mà tôn vinh Danh Thánh, giúp mọi người đạt tới ơn cứu độ. Chúng con cầu xin…
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Chúa đã tác thành mọi sự trong vũ trụ, đã sắp đặt cho thời gian thay đổi tuần hoàn.
Còn loài người, Chúa đã dựng nên giống hình ảnh Chúa và bắt mọi sự kỳ diệu quy phục loài người để họ thay quyền Chúa thống trị mọi loài Chúa đã sáng tạo và luôn ca tụng Chúa vì muôn việc kỳ diệu Chúa đã làm, nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con.
Bởi vậy, trong khi cử hành lễ hân hoan này, cùng với toàn thể các Thiên thần, chúng con ca ngợi tung hô Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Ôi Thiên Chúa, cao quý thay ân sủng của Ngài. Con người ta tìm nương tựa trong bóng cánh của Ngài.
Hoặc đọc:
Chén chúc tụng mà chúng ta cầm lên chúc tụng Chúa, là thông hiệp với máu Chúa Kitô, và tấm bánh mà chúng ta bẻ ra, là thông phần vào mình Chúa.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, xin làm cho sức mạnh của bí tích này tràn ngập chúng con cả hồn lẫn xác, để chúng con không còn sống theo những cảm nghĩ tự nhiên, nhưng luôn theo ơn Thánh Thần hướng dẫn. Chúng con cầu xin…
2022
9 Điều Mọi Người Công Giáo Nên Biết về Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhất
9 Điều Mọi Người Công Giáo Nên Biết về Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhất
Lúc 10 giờ 30 sáng Chúa Nhật 04 tháng Chín năm 2022, Đức Thánh Cha Phanxicô chủ sự thánh lễ tại Quảng trường thánh Phêrô để tôn phong Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhất lên bậc chân phước.
Trước đó, lúc 6 giờ 30 chiều thứ Bảy, ngày 03 tháng Chín, tại Đền Thờ Thánh Gioan Latêranô của Rôma sẽ có buổi canh thức cầu nguyện để chuẩn bị cho đại lễ này. Chúa nhật, ngày 11 tháng Chín tiếp đó, tại làng Canale d’Agordo, quê hương của ngài, thuộc tỉnh Belluno Veneto, sẽ có lễ tạ ơn trọng thể.
Nhân dịp này, tờ National Catholic Register có bài sưu khảo nhan đề “John Paul I: 9 Things Every Catholic Should Know”, nghĩa là “9 Điều Mọi Người Công Giáo Nên Biết về Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhất”.
Thứ Nhất: Tiểu sử vắn tắt của ngài
Bậc Đáng kính Gioan Phaolô Đệ Nhất có tên khai sinh là Albino Luciani, chào đời vào ngày 17 tháng 10 năm 1912 tại thị trấn Canale d’Argordo thuộc tỉnh Belluno miền bắc nước Ý. Ngài là vị giáo hoàng gần đây nhất sinh ra ở Ý và là vị giáo hoàng đầu tiên được sinh ra trong thế kỷ 20.
Ngài được bầu làm giáo hoàng vào ngày 26 tháng 8 năm 1978. Ngài qua đời chỉ một tháng sau đó. Mặc dù thời gian làm Giáo hoàng Rôma ngắn ngủi, nhưng ngài đã có tác động đến mức một số người Công Giáo đã tìm kiếm sự cầu thay của ngài như một vị thánh. Vatican đã công nhận một sự chữa lành kỳ diệu được cho là của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhất và ngài được phong chân phước vào ngày 4 tháng 9.
Đây là những điều cần biết thêm:
Thứ Hai: Gioan Phaolô Đệ Nhất được biết đến là “Giáo hoàng tươi cười”
Nụ cười ăn ảnh của giáo hoàng đã giúp củng cố danh tiếng và biệt danh của ngài.
Danh tiếng của ngài vang vọng phong cách mục vụ của ngài: ngài đã thu hút sự khen ngợi về khả năng gần gũi với những người bình thường. Ngài có thể trình bày Kitô giáo và giáo lý Công Giáo theo cách dễ tiếp cận.
Ví dụ, ngài đã nói chuyện với trẻ em Ý trước ngày đầu tiên đi học của chúng trong những lời nhận xét trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật vào ngày 17 tháng 9, 1978.
Ngài lấy ví dụ về nhân vật trong truyện dân gian Pinocchio: “Không phải cậu bé trốn học một ngày nọ để đi xem rối; nhưng cậu bé khác, Pinocchio, người thích đến trường. Đến nỗi trong suốt cả năm học, mỗi ngày, trong lớp, cậu ấy là người đầu tiên vào học và cũng là người cuối cùng ra về”.
Thứ Ba: Đức Giáo Hoàng thừa nhận rằng ngài đã không học được cách trở thành một giám mục tốt. Nhưng ngài hứa sẽ cố gắng.
Khi một cộng đoàn đông đảo tụ tập tại quảng trường Thánh Phêrô để tham dự Thánh lễ nhậm chức mục tử toàn thể Hội Thánh của ngài, ngài đã cam kết một tinh thần phục vụ.
Ngài nói: “Tất cả mọi người ở đây, dù lớn hay nhỏ, hãy yên tâm về sự sẵn sàng phục vụ họ theo Thánh Linh của Chúa”.
Ngài tiến đến việc trở thành giáo hoàng với sự khiêm tốn. Trong bài giảng ngày 23 tháng 9, 1978 tại Đền Thờ Thánh Gioan Latêranô, ngài nói: “Mặc dù tôi đã làm Giám mục tại Vittorio Veneto và Venice được hai mươi năm rồi, nhưng tôi thừa nhận rằng tôi vẫn chưa ‘học được cách tốt nhất’ để làm một Giám Mục.”
“Đó là luật của Thiên Chúa rằng người ta không thể làm điều tốt cho bất cứ ai nếu trước hết người ta không chúc lành cho người đó… Tôi có thể bảo đảm với anh chị em rằng tôi yêu mến anh chị em, rằng tôi chỉ mong muốn được tham gia vào sự phục vụ cho anh chị em và đặt những quyền năng kém cỏi mà tôi có, dù chúng nhỏ bé đến đâu, theo ý của tất cả”.
Thứ Tư: Ngài là vị Giáo hoàng có hai tên. Tại sao ngài chọn ‘Gioan Phaolô’?
Ngài là vị giáo hoàng đầu tiên mang hai tên. “Gioan” và “Phaolô” nhằm vinh danh hai người tiền nhiệm của ngài, Thánh Giáo hoàng Gioan 23 và Thánh Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục.
Đức Gioan 23, nguyên là Thượng phụ Venice, đã phong ngài làm giám mục. Đức Phaolô Đệ Lục đã phong ngài là Thượng phụ Venice và là Hồng Y.
Đức Giáo Hoàng Luciani giải thích lý do tại sao ngài chọn trở thành “Giáo hoàng Gioan Phaolô” đầu tiên trong bài phát biểu trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật của ngài tại quảng trường Thánh Phêrô vào ngày 27 tháng 8, 1978, một ngày sau khi ngài được bầu làm Giáo hoàng:
“ Đức Giáo Hoàng Gioan đã quyết định tấn phong chính tôi trong Đền Thờ Thánh Phêrô. Sau đó, dù không xứng đáng, tôi đã kế vị ngài ở Venice trên Ghế của Thánh Máccô, ở Venice vẫn còn đầy rẫy các kỷ niệm về Đức Giáo Hoàng Gioan. Ngài được những người chèo thuyền, các Sơ, và mọi người nhớ đến”.
“Sau đó, Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục không chỉ phong tôi làm Hồng Y, mà vài tháng trước đó, trên cây cầu rộng ở Quảng trường Thánh Máccô, ngài ấy đã khiến tôi đỏ mặt tía tai trước sự chứng kiến của 20.000 người, bởi vì ngài ấy đã cởi bỏ áo choàng của mình và đặt trên vai tôi. Chưa bao giờ tôi đỏ mặt đến thế!”
Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục đã làm giáo hoàng trong 15 năm. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô nói rằng người tiền nhiệm của ngài đã cho “không chỉ tôi mà cho toàn thế giới thấy cách yêu thương, cách phục vụ, cách lao động và chịu khổ vì Giáo hội của Chúa Kitô”.
“Tôi không có ‘sự khôn ngoan từ trái tim’ của Đức Giáo Hoàng Gioan, cũng không phải sự chuẩn bị và văn hóa của Đức Giáo Hoàng Phaolô, nhưng tôi ở vị trí của các ngài,” ngài nói với những người tụ tập trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật. “Tôi phải tìm cách phục vụ Giáo hội. Mong rằng anh chị em sẽ cầu nguyện giúp cho tôi”.
Một ngày trước khi chết, ngài giải thích một lời cầu nguyện mà mẹ ngài đã dạy cho ngài
Mặc dù ngài không biết điều đó, nhưng buổi tiếp kiến chung ngày 27 tháng 9 của Đức Gioan Phaolô là buổi tiếp kiến cuối cùng của ngài. Ngài suy ngẫm về một lời cầu nguyện do mẹ ngài dạy.
Lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa con, với tất cả tấm lòng, trên hết mọi sự, con yêu mến Chúa, Đấng tốt lành vô hạn và là hạnh phúc vĩnh cửu của chúng con, và vì yêu mến Chúa, con yêu mến người lân cận của mình và tha thứ cho những tội lỗi họ đã gây ra. Lạy Chúa, xin cho con ngày càng yêu mến Chúa nhiều hơn.”
“Đây là một lời cầu nguyện rất nổi tiếng, được tô điểm bằng những câu Kinh thánh,” Đức Giáo Hoàng nhận xét. “Mẹ tôi đã dạy nó cho tôi. Tôi đọc thuộc lòng nhiều lần mỗi ngày ngay cả bây giờ, và tôi sẽ cố gắng giải thích cho anh chị em nghe từng chữ một, như một giáo lý viên giáo xứ sẽ làm.”
Suy ngẫm về những lời cuối cùng của người cầu nguyện, “Lạy Chúa, xin cho con ngày càng yêu Chúa nhiều hơn”, Đức Gioan Phaolô giải thích rằng chúng ta nên yêu Chúa “thật nhiều”. Chúng ta không được dừng lại ở thời điểm hiện tại, “nhưng với sự giúp đỡ của Ngài, tình yêu sẽ tiến triển.”
Thứ Năm: Không phải là Triều đại Giáo hoàng ngắn nhất, chỉ gần như vậy
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhất đã cai quản Giáo Hội trong 33 ngày, từ ngày 26 tháng 8 đến ngày 28 tháng 9 năm 1978. 33 ngày làm giáo hoàng của ngài là ngắn thứ 10. Vị giáo hoàng cuối cùng có triều đại giáo hoàng ngắn ngủi như vậy là Đức Giáo Hoàng Lêô thứ 11, triều đại giáo hoàng của ngài kéo dài 27 ngày vào tháng 4 năm 1605.
Thứ Sáu: Một cái chết gây chấn động
Cái chết của một vị giáo hoàng ngay sau khi ngài đắc cử đã gây ra cú sốc lớn đến mức nó tiếp tục thu hút sự chú ý.
Cuốn sách “John Paul I: The Chronicle of a Death”, nghĩa là “Đức Gioan Phaolô Đệ Nhất: Biên niên sử của một cái chết” xuất bản năm 2017 của phóng viên Vatican Stefania Falasca là một nỗ lực gần đây thảo luận kỹ lưỡng về những ngày cuối cùng của ngài. Công việc của cô dựa trên các báo cáo y tế, lời khai của nhân chứng và các tài liệu của Vatican.
Cô kể lại rằng vào buổi tối trước khi qua đời, Đức Giáo Hoàng bị một cơn đau dữ dội ở ngực trong khoảng 5 phút, một triệu chứng của một vấn đề về tim. Việc này diễn ra trước bữa tối khi ngài đang cầu nguyện Kinh Chiều với thư ký người Ái Nhĩ Lan, Đức Ông John Magee.
Khi cơn đau giảm bớt, giáo hoàng từ chối đề nghị gọi bác sĩ Renato Buzzonetti, là bác sĩ riêng của ngài. Ông chỉ được thông báo về tình tiết này sau khi Đức Giáo Hoàng qua đời.
Nguyên nhân cụ thể của cái chết của ngài có thể sẽ không bao giờ được xác định một cách chắc chắn bởi vì không có cuộc khám nghiệm tử thi nào được thực hiện theo quy định của Vatican. Đức Cha Enrico Dal Covolo, người từng là cáo thỉnh viên về án phong hiển thánh của Đức Gioan Phaolô Đệ Nhất, cho biết các hồ sơ y tế được thu thập như một phần của quy trình cũng hỗ trợ kết luận rằng Đức Giáo Hoàng qua đời vì các nguyên nhân tự nhiên.
Có nhiều tin đồn khác nhau về cái chết của Đức Gioan Phaolô I, bao gồm cả những suy đoán giật gân về một âm mưu ám sát của các nhóm bất chính có quan tâm đến vai trò của Vatican trong tôn giáo, chính trị hoặc tài chính.
Thứ Bẩy: Đức Gioan Phaolô Đệ Nhất đã viết “Những bức thư ngỏ” cho Mark Twain, Pinocchio và Vua David
Cuốn sách năm 1976 của ngài Illustrissimi là một bộ sưu tập tiểu thuyết giàu trí tưởng tượng: “thư ngỏ” cho các nhân vật lịch sử, các vị thánh, nhà văn nổi tiếng và các nhân vật tưởng tượng. Một số có phong cách vui tươi, trong khi những bài khác tham gia vào bình luận xã hội, lời khuyên cá nhân hoặc phản ánh tâm linh.
Một số là vấn đề của sự sùng kính tôn giáo. Một bộ sưu tập những bức thư này kết thúc với bức thư của Đức Gioan Phaolô mà ngài đã viết “với sự run sợ” cho Chúa Giêsu Kitô.
“Đối với Chúa, con cố gắng duy trì một cuộc trò chuyện liên tục. Nhưng để dịch nó thành những lá thư thì rất khó: đây là những điều cá nhân… Và ngoài ra, con còn có thể viết gì cho Chúa, về Chúa, sau tất cả những cuốn sách đã viết về Chúa?” bức thư cho biết.
Bày tỏ sự không hài lòng với bức thư ngỏ gửi đến Chúa Kitô, vị giáo hoàng tương lai kết luận: “Điều quan trọng không phải là một người nên viết về Chúa Kitô, mà là nhiều người phải yêu mến và noi gương Chúa Kitô”.
Thứ Tám: Ngài chưa bao giờ là Cha Sở của một Giáo xứ
Bất chấp danh tiếng “mục vụ” của mình, Đức Gioan Phaolô Đệ Nhất tương lai chưa bao giờ làm Cha Sở lãnh đạo một giáo xứ! Ngài là cha phó cho nhà thờ quê hương của mình ở Canale d’Agordo chỉ trong sáu tháng sau khi được thụ phong vào tháng 7 năm 1935. Trong cuộc đời của mình, ngài là một giáo sư chủng viện và hiệu trưởng chủng viện. Ngài đã giữ một số vai trò lãnh đạo trong Giáo phận Belluno e Feltre trước khi ngài được bổ nhiệm làm Giám mục của Vittorio Veneto ở miền bắc nước Ý. Từ đó, ngài trở thành Thượng phụ Venice, Hồng Y và giáo hoàng.
Thứ Chín: Phép lạ phong chân phước ở Á Căn Đình
Candela Giarda, một bé gái 11 tuổi đến từ Paraná, đông bắc Á Căn Đình, bị rối loạn chức năng não và nhiễm trùng trong bối cảnh co giật không kiểm soát được. Sau đó cô được chẩn đoán mắc Hội chứng động kinh liên quan đến nhiễm trùng do sốt.
Mẹ của cô gái, Roxana Sosa, đến cầu nguyện trong nhà thờ Công Giáo cạnh bệnh viện Buenos Aires và gặp một linh mục, Cha José Dabusti.
Một cuộc điều tra của Vatican sau đó đã đưa tin.
Vào ngày 22 tháng 7 năm 2011, các bác sĩ cho biết Candela đang phải đối mặt với “cái chết sắp xảy ra,” Khi Cha Dabusti đến cầu nguyện với mẹ của cô gái, ngài đề nghị họ cầu nguyện để được chữa lành nhờ sự chuyển cầu của Đức Gioan Phaolô Đệ Nhất.
Mặc dù Sosa không biết nhiều về vị giáo hoàng đã khuất, nhưng cô đã cầu nguyện riêng với ngài. Linh mục và các nhân viên điều dưỡng của phòng chăm sóc đặc biệt đã tham gia cầu nguyện cho cô.
Candela đã cho thấy sự cải thiện chỉ sau một đêm. Hai tuần sau, các bác sĩ đã tháo ống thở cho cô. Bệnh động kinh của cô ấy đã được chữa khỏi một tháng sau đó và cô ấy đã được xuất viện vào ngày 5 tháng 9, 2011.
Cô gái trẻ ngày nào giờ đã là một thiếu nữ ngoài 20 tuổi. Năm ngoái, cô đang theo học ngành thú y.
Cha Dabusti đã báo cáo phép lạ rõ ràng cho các quan chức Vatican và làm theo chỉ dẫn của họ để ghi lại mọi thứ đã xảy ra.
Thật tình cờ, Đức Tổng Giám Mục của Buenos Aires vào thời điểm đó là Đức Hồng Y Jorge Mario Bergoglio, Giáo hoàng Phanxicô tương lai. Sau cuộc điều tra thích hợp của các viên chức Giáo hội, Đức Phanxicô vào ngày 21 tháng 10 năm 2021 đã công nhận phép lạ do lời cầu bầu của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô.
Đặng Tự Do
2022
“Phép lạ Argentina đầu tiên”, chìa khóa để tiến hành việc phong chân phước cho Đức Gioan-Phaolô I
“Phép lạ Argentina đầu tiên”, chìa khóa để tiến hành việc phong chân phước cho Đức Gioan-Phaolô I
“Giáo hoàng mỉm cười” tại chức 33 ngày năm 1978, sẽ được Đức Phanxicô phong chân phước ở Vatican; nhờ lời cầu bàu với ngài, năm 2011 em bé Candela Giarda ở Argentina đã được chữa lành một cách không thể giải thích được
Ngày chúa nhật 4 tháng 9, Đức Phanxicô sẽ phong chân phước cho Đức Gioan-Phaolô I, “giáo hoàng mỉm cười” hay còn được gọi là “giáo hoàng 33 ngày”. Giáo hoàng cuối cùng người Ý tại chức từ ngày 26 tháng 8 năm 1978 khi ngài được bầu để kế vị Đức Phaolô VI, đến ngày 28 tháng 9 năm 1978, khi ngài qua đời vì cơn đau tim đột ngột.
Trên thực tế, ngài chết tự nhiên, không bị ám sát hoặc nạn nhân của bất kỳ âm mưu nào, vì trí tưởng tượng tập thể tiếp tục nghĩ theo quyển sách bán chạy Nhân danh Chúa, một cuộc điều tra về vụ ám sát giáo hoàng Gioan-Phaolô I của tác giả người Anh Savid Yallop (Au nom de Dieu, une enquête sur l’assassinat du pape John Paul I), bị bà Stefania Falasca, nhà báo và là phó cáo thỉnh viên án phong thánh của ngài cho là “rác” và “tin giả”.
Giáo hoàng Gioan-Phaolô I sẽ được phong chân phước nhờ một phép lạ ở Argentina: tháng 7 năm 2011, em bé Candela Giarda 11 tuổi ở Paraná cận kề cái chết do “chứng viêm não”, căn bệnh động kinh cấp tính, ác tính và sốc nhiễm trùng, em được lành một cách không giải thích được. Bây giờ Candela đã 21 tuổi, là sinh viên đại học và có cuộc sống hoàn toàn bình thường. Cô không thể đến Rôma dự lễ phong chân phước vì bị tai nạn ở chân trong phòng tập thể dục, cô kể lại trong đoạn video cô gởi đến một cuộc họp báo ở Vatican.
Linh mục José Dabusti, người Argentina nói với nhật báo La Nación: “Chỉ vài ngày trước, một sức nặng rơi xuống chân cô, họ nghĩ cô có thể đi giày chỉnh hình, nhưng bác sĩ không cho phép cô đứng và đi lại. Cô không thể đến Rôma trong sự kiện trọng đại này, phép lạ của cô là chìa khóa để việc phong chân phước được tiến hành.
Chính linh mục Dabusti đề nghị với bà Roxana Sosa, mẹ của Candela cầu nguyện Đức Gioan-Phaolô I. Linh mục nhớ lại và phát biểu trong một cuộc họp báo ở Vatican: “Đó là trưa ngày 22 tháng 7 năm 2011, bà Roxana đến nói với tôi, Candela bị nhiễm vi-rút nosocomial, bị sưng phổi và bác sĩ nghĩ Candela sẽ không qua khỏi đêm nay, Roxana xin tôi đi theo bà cầu nguyện với Đức Gioan-Phaolô I thêm một lần nữa ở nhà thờ Giáo xứ Đức Mẹ Rábida. Chúng tôi đến Hiệp hội Favaloro. Chúng tôi đi xin chữa lành như những lần khác. Tôi không nhớ lúc đó có bao nhiêu nhân viên y tế ở bên giường Candela. Tôi nhớ hình ảnh một cô y tá rất xúc động, và chúng tôi đến gần Candela, em chỉ nặng không quá 19 kílô… Làm sao tôi có thể đề nghị Roxana cầu nguyện với Đức Gioan-Phaolô I để xin cho em Candela hồi sức lại? Về mặt con người, tôi không hiểu được nhưng về mặt thiêng liêng thì tôi chắc chắn chỉ có ba chữ “Chúa Thánh Thần.”
Linh mục giải thích: “Với linh mục chúng tôi, chúng tôi đã quen chứng kiến giáo dân trong tình huống cuối đời của họ. Vì lý do này, tôi tin chắc Chúa Thánh Thần đã thúc đẩy để tôi có lời cầu nguyện với Đức Gioan-Phaolô I. Bà Roxana không biết gì về giáo hoàng Luciani. Vì chúng tôi đang ở phòng chăm sóc đặc biệt, nên tôi giải thích lý do vì sao phải cầu nguyện cho Candela và xin cầu bàu để cứu sống Candela, xin cho Candela được hồi phục nhanh chóng. Vì thế, Roxana, tôi và hai y tá có mặt, chúng tôi đặt tay lên cơ thể của Candela và tôi cầu nguyện tự phát. Tôi không nhớ chính xác những lời tôi đã cầu nguyện. Tôi xin Chúa qua lời cầu bàu của Đức Gioan-Phaolô I chữa lành cho Candela.”
Ngày hôm sau, Roxana đến giáo xứ để nói với tôi, không những Candela đã qua đêm mà còn khỏe hơn. Linh mục kể tiếp: “Ngày và tuần trôi qua, Candela tiếp tục hồi phục. Cho đến khi tôi không còn liên lạc với gia đình vì gia đình đã về Paraná. Mọi thứ vẫn trong im lặng cho đến cuối năm 2014 khi tôi gặp lại Roxana và Candela ở giáo xứ La Rábida. Một niềm vui lớn khi tôi gặp lại bà Roxana và cô bé Candela 15 tuổi, tôi nhận không ra. Hai mẹ con đến chào tôi. Roxana muốn Candela gặp tôi để tôi xem cô được hồi phục như thế nào. Chiều hôm đó, tôi hỏi Roxana xem bà còn nhớ người mà chúng tôi đã cầu nguyện hay không, rồi tôi nói thêm: “Tôi nghĩ một ngày nào đó chúng ta sẽ nhắc lại chuyện kỳ lạ này.”
Chính vì vậy, qua những lần tiếp xúc, Đức Gioan-Phaolô I đã có mặt trong câu chuyện kỳ diệu này trong tiến trình phong chân phước cho ngài.
Năm 2018 tại giáo xứ Nuestra Seđor de las Mercedes trong khu phố Belgrano, linh mục Dabusti giải thích lý do cho lòng kính mến của ngài với Đức Gioan-Phaolô I, tháng 8 năm 1978, lúc đó linh mục chỉ là một thiếu niên 13 tuổi đã xúc động với con người này: “Hai đặc điểm thu hút sự chú ý mạnh mẽ và khơi dậy lòng ngưỡng mộ của tôi và trên tất cả là tình cảm tự phát của tôi dành cho ngài: niềm vui của ngài qua nụ cười bất tử, qua đức khiêm tốn của ngài đã làm tôi vô cùng kinh ngạc.”
Lúc đó, linh mục còn dán tấm tấm áp phích hình của ngài lên cửa tủ quần áo trong phòng ngủ, ngài kể: “Nhiều lần, khi nhìn chân dung ngài, tôi đã cầu nguyện với ngài. Và khi ngài đột ngột qua đời, tôi bị chấn động.” Năm tháng qua đi, linh mục tiếp tục cầu nguyện với Đức Gioan-Phaolô I để nhận định ơn gọi. Linh mục kể một giai thoại: “Khi có ai đi Rôma, tôi xin họ đến trước mộ Đức Gioan-Phaolô I ở vương cung thánh đường Thánh Phêrô và đọc một lời cầu nguyện cho tôi, để tôi là một linh mục tốt lành và trung thành ”.
Xúc động
Vào đêm trước lễ phong chân phước cho giáo hoàng được nhiều người kính mến và ít biết đến này, linh mục Dabusti cho biết, trong buổi lễ trọng thể này cha sẽ mang di tích của tân chân phước, một bản viết tay của ngài, linh mục không giấu được niềm xúc động lớn lao của ngài, ngài nói với nhật báo La Nación: “Trong những ngày này tôi thật chấn động. Thêm nữa Candela không phải là phép lạ duy nhất của ngài của “giáo hoàng mỉm cười”. Ngài nhiệt tình kể: “Ngày phép lạ được chấp thuận tại Vatican, 13 tháng 10 vừa qua, một người bạn gọi điện thoại báo cho tôi: ‘Đây không phải phép lạ đầu tiên được biết đến, nhưng chúng tôi báo cho cha biết chúng tôi đã có con’. Tôi đã tặng cho cặp vợ chồng hiếm muộn này bức hình của Đức Gioan-Phaolô I và bây giờ họ đã có ba người con.” Và còn thêm nữa: “Có một người bạn của gia đình linh mục Dabusti sống ở Tây Ban Nha, họ sẽ có mặt ở Quảng trường Thánh Phêrô chúa nhật này, người con trai út của họ bị ung thư rất nặng… linh mục cũng nói họ cầu nguyện đặc biệt với Đức Gioan-Phaolô II và bây giờ chẩn đoán đã thay đổi, chúng tôi đã giao phó cháu cho ngài.”
Marta An Nguyễn dịch
2022
Hồng y Parolin: “Đức Gioan-Phaolô I là người của Công đồng”
Hồng y Parolin: “Đức Gioan-Phaolô I là người của Công đồng”
Ngày chúa nhật 4 tháng 9, Đức Gioan-Phaolô I, giáo hoàng chỉ tại chức 33 ngày, sẽ được Đức Phanxicô phong chân phước tại Rôma. Hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa thánh, kiêm chủ tịch Quỹ Vatican Gioan-Phaolô I, trong một phỏng vấn, ngài giải thích lý do vì sao “tầm quan trọng của Đức Gioan Phaolô I trong lịch sử Giáo hội tỷ lệ nghịch với thời gian ngài đứng đầu Giáo hội”.
Cha 23 tuổi vào ngày 26 tháng 8 năm 1978, ngày thượng phụ Venice được bầu làm giáo hoàng. Cha còn nhớ khoảnh khắc này không?
Hồng y Pietro Parolin: Tôi còn nhớ rất rõ ngày hôm đó. Khi đó tôi còn là phó tế năm cuối thần học tại chủng viện Vicenza, nhưng mùa hè năm đó tôi về Reggio Emilia để học khóa học tâm lý. Chiều thứ bảy 26 tháng 8, chúng tôi đến dự lễ truyền chức phó tế của một người bạn cũng ở Reggio Emilia. Khi chúng tôi rời nhà thờ, tôi nghe tin tân giáo hoàng đã được bầu.
Và ngay sau đó, chúng tôi biết tên ngài, đó là hồng y Thượng phụ Albino Luciani của Venice. Một đại bất ngờ vì kết quả nhanh của mật nghị. Ngài đắc cử trong thời gian rất ngắn, chưa đầy 24 giờ, trong khi báo chí tiên đoán mật nghị sẽ kéo dài, đau đớn và khó khăn. Sau này chúng tôi biết, ngài được bầu với một số phiếu đồng thuận cao. Dù ngài ở vùng này, thượng phụ giáo chủ Veneto nhưng tôi không biết rõ ngài. Tôi có đọc quyển sách Illustrissimi của ngài (ấn bản tiếng Pháp là Humblement vôtre, Sự khiêm tốn của bạn). Trên thực tế, tôi không có yếu tố nào để có thể lượng định về nhân cách của ngài. Chúng tôi vẫn còn là chủng sinh, vì vậy chúng tôi chưa dự vào các công việc của Vatican!
Đức Gioan-Phaolô I trong ngày nhậm chức 3 tháng 9-1978 tại Rôma
Như thế sau này cha mới biết ngài?
Đúng, sau này. Sau đó là câu chuyện của ngài và cái chết đột ngột của ngài, chỉ sau 33 ngày tại chức đã khơi dậy một số chú ý về ngài. Ngoài ra là cách ngài cho thấy về ngài trong 33 ngày này, phong cách độc đáo khi ngài bắt đầu triều giáo hoàng, đã làm cho thế giới đánh giá cao về ngài; và tất nhiên đã khơi dậy trong tôi mong muốn tìm hiểu sâu hơn về con người này.
Cha chia sẻ với Đức Gioan-Phaolô I cùng nguồn gốc Veneto. Chỗ đứng nào của đạo công giáo ở vùng này của nước Ý, nơi đã cho Giáo hội nhiều nhân cách và vị thánh vĩ đại?
Tôi nghĩ mọi thứ đã thay đổi đáng kể trong vài thập kỷ qua. Quá trình thế tục hóa đã ảnh hưởng đến toàn thể Giáo hội, toàn thế giới và đặc biệt là thế giới phương Tây, đã cảm thấy rất mạnh, rất lớn trong khu vực của chúng tôi.
Đây là vùng của một đạo công giáo sâu đậm, nơi đức tin không được phải như một thứ gì đó chồng chất lên cuộc sống, nhưng là một phần thiết thân của cuộc sống, nơi đức tin là biểu hiện cao hơn của chính cuộc sống. Và điều này được thể hiện trên tất cả qua việc giữ đạo, thực tế ở đây có một tỷ lệ rất cao dân chúng dự thánh lễ, dự các bí tích, các cử hành phụng vụ khác… Và trên tất cả là mức độ ơn gọi. Vào những năm 1960, trong chủng viện của tôi có đến 600 chủng sinh!
Tại đây có tinh thần truyền giáo lớn trong các việc của đạo công giáo: và đó là đặc điểm của sự hiện diện Giáo hội trong khu vực, gắn kết mạnh mẽ với thực tế xã hội, nhất là trong thời kỳ nghèo đói. Giáo hội thực sự là một nhân tố thúc đẩy con người, được liên kết với hình ảnh của các linh mục, những người khởi xướng công việc đoàn kết vĩ đại, như các tổ chức hợp tác, nơi mọi người tụ họp, v.v.
Ngày nay, chắc chắn vẫn còn sự hiện diện của Giáo hội, nhưng không còn những đặc trù này nữa, ngay cả khi với những giá trị cố định như công việc thiện nguyện, phát sinh chính xác từ những giá trị mà Giáo hội đã khắc sâu và hiện diện trong vùng Veneto của chúng tôi.
Albino Luciani đã làm hầu hết sứ mệnh của ngài ở Veneto, ban đầu là linh mục tại giáo phận Belluno, sau đó là giám mục của Vittorio Veneto (1958-1969) và cuối cùng là thượng phụ Venice (1969-1978). Ngài đã để lại những kỷ niệm gì ở quê hương của ngài?
Tôi nghĩ ngài để lại một ký ức sống động ở vùng Veneto. Ở Belluno, nơi ngài chịu chức và làm sứ mệnh chức thánh, vẫn còn các linh mục biết ngài khi ngài làm giáo sư ở chủng viện. Mọi người đều nhớ đến sự mạch lạc, sự sáng tỏ, sự tươi mới của ngài khi trình bày vấn đề, khi giảng dạy. Ngài có một năng khiếu đặc biệt khi trình bày một vấn đề, để được hiểu. Họ cũng đặc biệt nhớ ngài đặt tầm quan trọng vào công việc dạy giáo lý. Điều này luôn là đặc trưng của ngài. Cuối cùng họ cũng nhớ đến thời gian ngài làm cha tổng đạo diễn và sự kiên định khi ngài thực hiện chức năng của ngài. Và cũng có những người lớn tuổi rất “mê” ngài, họ xúc động khôn nguôi khi nhắc đến ngài.
Và khi ngài làm giám mục thì họ nhớ đến ngài như thế nào?
Ngài được bổ nhiệm về Vittorio Veneto trùng hợp với những bước đầu của Công đồng Vatican II, nên dần dần ngài cùng đi với công đồng. Ở Venice, tôi tin đây là giai đoạn khó khăn nhất của ngài, ngài có nhiều căng thẳng. Đó là những năm phản đối. Do đó, có những khó khăn trong việc thực hiện Công đồng trước những biểu hiện phản đối nảy sinh vào lúc này. Nhưng tôi nghĩ hình ảnh đẹp nhất của thượng phụ Venice là khi những người khiêm nhường nghĩ về ngài, họ đều thấy ngài rất gần gũi với mọi người.
Vì triều giáo hoàng của ngài rất ngắn, bị kẹt giữa hai “giáo hoàng khổng lồ” là Đức Phaolô VI và Đức Gioan-Phaolô II nên chúng ta thường ít biết về ngài. Chúng ta thường nói về “một giáo hoàng mỉm cười” và cái chết bất ngờ của ngài. Đâu là những bài học chính cha rút tỉa từ triều giáo hoàng của ngài?
Giảng dạy chính của ngài là về Công đồng. Ngài là người của Công đồng và đã tìm cách dịch chính xác giáo huấn của Công đồng vào đời sống mục vụ. Trên phương diện cá nhân, giảng dạy lớn lao của ngài là về sự đơn giản của Phúc âm. Một giản dị bắt nguồn mạnh mẽ từ đức tính khiêm tốn của ngài. Tôi nhớ lời Đức Bênêđíctô XVI nói về Đức Gioan-Phaolô I: “Lòng khiêm tốn có thể được xem là di chúc thiêng liêng của ngài.”
Khiêm tốn là đức tính cơ bản mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta, làm cho chúng ta đẹp lòng Chúa và cũng tạo điều kiện thuận lợi cho mối quan hệ của chúng ta với người anh em, khiêm nhường không có nghĩa là thấp kém mà nhìn nhận rằng tất cả ân sủng chúng ta nhận được đều là do Chúa ban. Và cuối cùng, ngài có cách sống Phúc Âm một cách toàn vẹn, trực tiếp đi thẳng đến bản chất của Phúc Âm, không phân rẽ, không phân chia những gì ngài nghĩ, nói, dạy và thực hành.
Đức Gioan-Phaolô I là giáo hoàng người Ý cuối cùng. Chúng ta thường nhận xét về tầm quan trọng của việc quốc tế hóa Giáo hội hoàn vũ, nhưng hiếm khi nói về ảnh hưởng của việc này với Giáo hội Ý. Là người Ý, cha cảm nhận sự tiến hóa này như thế nào?
Tôi nghĩ những thay đổi này đã có thể tạo một số ngạc nhiên lúc đầu, một ngạc nhiên sau nhiều thế kỷ của các giáo hoàng Ý. Đó là bản chất của mọi chuyện, dần dần từng bước một, Giáo hội và Giáo triều Rôma mở cửa để quốc tế hóa. Đó là một trong những dấn thân cao cả của Đức Phaolô VI, và nó chỉ có ý nghĩa khi cuối cùng sẽ có một giáo hoàng không phải người Ý. Tôi tin trong khuôn khổ khái niệm phổ quát của Giáo hội, đây không phải là vấn đề. Chúng tôi rất vui vì chính Chúa Thánh Thần sẽ tìm khắp nơi trên thế giới để có người kế vị Thánh Phêrô!
Sau Đức Gioan-Phaolô I, cuộc bầu chọn Đức Gioan-Phaolô II hẳn là điểm nổi bật bất chấp mọi thứ: lần đầu tiên sau nhiều thế kỷ, một giám mục Rôma không phải là người Ý.
Đúng, nhưng, tạ ơn Chúa, tôi không muốn ca ngợi người Ý! Tôi nghĩ đó là một chút trong tinh thần Ý, cởi mở trước tính phổ quát này. Và có lẽ việc Chúa chọn Rôma là trung tâm Giáo hội của Ngài, nơi Ngài muốn có đạo công giáo và do đó là phổ quát, có một ý nghĩa… Chúng ta nghĩ đến việc Đức Bênêđíctô XVI từ nhiệm, đó là cú sốc. Nhưng đó là những điều đã trưởng thành, và chúng ta biết cuối cùng lịch sử được Thần Khí Thiên Chúa dẫn dắt. Trên thực tế và cả trên bình diện cá nhân cũng như bình diện chung, tôi không cảm thấy khó khăn gì khi chấp nhận những thay đổi này.
Ngược lại, ngày nay chúng ta có thể có ấn tượng, người Ý “thâu nhận” giáo hoàng, dù ngài đến từ đâu, và làm cho ngài thành người của họ…
Vâng, đúng vậy. Chúng ta đã thấy sự đón nhận dành cho Đức Gioan-Phaolô II, một nhân vật lần đầu tiên xuất hiện tại mật nghị năm 1978. Đó là một điều gì rất đẹp.
Triều giáo hoàng Gioan-Phaolô I đến sau thời kỳ có nhiều thay đổi lớn trong Giáo hội, cũng do căng thẳng, điều này khuyến khích các giáo hoàng kế tiếp làm việc cho sự hợp nhất. Trong bối cảnh này, cha nghĩ những phẩm chất nào của Đức Gioan-Phaolô I đã lôi cuốn các hồng y cử tri?
Tôi nghĩ nó rất rõ ràng. Các hồng y đã thấy ở ngài một mục tử rất gần giáo dân. Và điều này nhắc đến chủ đề về sự gần gũi mà Đức Phanxicô nói đến rất nhiều. Họ nhìn thấy một mục tử đến với giáo dân với điều cốt yếu của đức tin, nhưng cũng là người rất chú ý đến các động lực xã hội, đến những khó khăn của giáo dân.
Một số chuyên gia về Đức Gioan-Phaolô I so sánh ngài với Đức Phanxicô. Cha nghĩ có điều gì đó phù hợp giữa hai ngài không?
Mỗi giáo hoàng có những đặc điểm riêng của họ. Theo tôi, so sánh luôn có những nguy hiểm của nó, vì chúng ta biết mỗi giáo hoàng được Chúa Thánh Thần gọi qua việc bầu chọn của các hồng y và mỗi giáo hoàng đáp ứng các nhu cầu hiện tại của Giáo hội.
Tuy nhiên, tôi nghĩ có những điểm tương đồng. Bà Stefania Falasca nói, trước khi bầu Đức Phanxicô, bà đến thăm ngài khi bà làm luận án về Illustrissimi. Hồng y Bergoglio đã cho bà thấy ngài rất quen thuộc với các tác phẩm của hồng y Luciani. Hai giáo hoàng có nhiều điểm tương tự nhau. Đức Phanxicô cũng như Đức Gioan-Phaolô I, ngài rất chú tâm đến sự đơn giản. Họ có kỹ năng giao tiếp tuyệt vời. Giáo hoàng Luciani là người giao tiếp xuất sắc. Họ chia sẻ mong muốn tiếp nối di sản của Công đồng Vatican II, và tôi thấy điểm này là điểm tương đồng cơ bản của họ.
Trong thông điệp Urbi et Orbi, Cho thành phố Rôma và cho Thế giới, ngày 27 tháng 8 năm 1978, Đức Gioan-Phaolô I mô tả sáu điều ngài mong ước cho Giáo hội: tiếp tục Công đồng Vatican II, duy trì kỷ luật trong Giáo hội, truyền giáo, đại kết, đối thoại liên tôn và hòa bình. Với bài phát biểu này, ngài đã đưa ra bài học nào cho những giáo hoàng kế nhiệm ngài?
Đúng, đó là đường hướng mà tất cả các giáo hoàng đã đi theo. Điểm này đặc biệt quan trọng với Albino Luciani, vì ngài là người kế vị ngay lập tức của Đức Phaolô VI, người đã đóng cửa Công đồng và bắt đầu giai đoạn thực hiện. Một giai đoạn mà ngài cho là dễ dàng hơn nhưng hóa ra lại phức tạp hơn. Việc chọn tên Gioan-Phaolô, tên của hai giáo hoàng Công đồng, là rất quan trọng. Đức Gioan XXIII phong ngài làm giám mục và Đức Phaolô VI phong ngài làm hồng y, nhưng việc chọn tên này trên hết có liên quan đến việc theo đuổi Công đồng. Và ngài đã đưa ra định hướng này cho người kế nhiệm, và tôi tin cả Đức Gioan-Phaolô II và Đức Phanxicô đều đã tiếp thu sáu điểm của chương trình này để tích hợp một cách sâu sắc và thúc đẩy các lựa chọn của Công đồng.
Cái chết đột ngột của Đức Gioan-Phaolô I nhắc nhở chúng ta quyền lãnh đạo thứ bậc của Giáo hội không được giao cho những siêu nhân mà cho các nhà lãnh đạo biết thế nào là mong manh.
Điều này cho chúng ta biết chính Chúa là người hướng dẫn Giáo hội của Ngài. Một con đường đôi khi thật bí ẩn, khó hiểu với chúng ta! Tôi nhớ đến sự ngạc nhiên. Tại chủng viện, sau thánh lễ buổi sáng. Chúng tôi được thông báo giáo hoàng đã qua đời. Chúng tôi kêu lên: “Nhưng tại sao ngài lại chết? Ngài đã chết cách đây một tháng!” Nhưng điều không may này thực sự đã xảy ra. Dĩ nhiên điều này cho thấy, giáo hoàng cũng là con người, ngài có tất cả các giới hạn của con người như chúng ta, kể cả giới hạn của sức khỏe. Như thế cũng có nghĩa, dù chỉ tại chức trong một thời gian ngắn, ngài cũng có thể để lại những dấu vết không thể xóa nhòa. Chúng ta có thể nói tầm quan trọng của Đức Gioan-Phaolô I trong lịch sử tỷ lệ nghịch với thời gian ngài đứng đầu Giáo hội. Ngay cả khi có ít thời gian, chúng ta có thể làm được rất nhiều, hãy là những người của Tin Mừng, những người tìm cách sống theo chiều sâu chức vụ của mình.
Video Đức Gioan-Phaolô I chào đón hồng y Karol Wojtyla, người sẽ kế vị ngài vài tuần sau với tên Gioan-Phaolô II. Ngày chúa nhật 4 tháng 9, Đức Phanxicô phong chân phước cho “giáo hoàng mỉm cười” tại Rôma.
Marta An Nguyễn dịch