2023
ĐỨC THÁNH CHA VIẾNG THĂM MÔNG CỔ ĐÁNH DẤU SỰ TÁI SINH GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG TỪ NĂM 1992
Theo cha Gilbert Sales, chuyến viếng thăm sắp tới của Đức Thánh Cha tới đất nước này nêu bật những đóng góp của các nhà truyền giáo đã làm việc cho sự tái sinh của Giáo hội địa phương ba thập kỷ trước. Cha bày tỏ lòng kính trọng đối với Đức cha Padilla, là Phủ doãn Tông Tòa đầu tiên của Mông Cổ. Đức cha người Philippines đã phục vụ ở Mông Cổ cho đến khi qua đời vào năm 2018, được ca ngợi vì những đóng góp cho sự phát triển của Giáo hội ở Mông Cổ.
Khi các nhà truyền giáo đến Mông Cổ vào năm 1992, không có người Công giáo Mông Cổ nào ở nước này ngoại trừ một số nhân viên của các đại sứ quán ở thủ đô. Các nhà truyền giáo bắt đầu tổ chức các buổi cầu nguyện và cử hành Thánh lễ tại nhà dân. Khi số tín hữu tăng lên, các vị đã thuê một hội trường để cử hành phụng vụ, và nhà thờ bằng gạch được xây dựng vài năm sau đó. Năm 1996, 150 tín hữu ở Mông Cổ đã tham dự Thánh lễ làm phép Nhà thờ Công giáo đầu tiên ở nước này.
Ngay từ đầu, cộng đoàn Công giáo đã duy trì thái độ tôn trọng đối với các nền văn hóa địa phương và các tôn giáo khác, cung cấp nhiều dịch vụ cho những người thiệt thòi và bị gạt ra bên lề nhất. Đức cha Padilla đã mời các nhà truyền giáo nước ngoài đến phục vụ. Các nhóm truyền giáo đã bắt đầu xây dựng các trường kỹ thuật, trung tâm nuôi trẻ mồ côi, nhà dưỡng lão, phòng khám, nhà tạm trú cho nạn nhân bạo lực gia đình và nhà trẻ. Các dịch vụ này chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị và cung cấp hỗ trợ quan trọng cho các gia đình nghèo.
Đức cha Padilla rất quan tâm đến đối thoại liên tôn. Ngài muốn duy trì mối quan hệ tốt đẹp với mọi người, không phân biệt đối xử, để làm chứng cho tình yêu Chúa Kitô đối với mọi người. Ngài trở thành một nhà lãnh đạo tôn giáo được toàn dân kính trọng.
Ngoài ra, Đức cha luôn khuyến khích các bạn trẻ Công giáo Mông Cổ sống ơn gọi linh mục. Ngày 28/8/2016, Đức cha đã truyền chức cho linh mục bản xứ đầu tiên của Mông Cổ, cha Joseph Enkh Baatar, khi đó 29 tuổi.
Cha Gilbert Sales kết luận rằng với những hoa trái truyền giáo này, cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha tới Mông Cổ thực sự là một điểm mốc tuyệt vời cho sự tái sinh của Giáo hội Công giáo tại quốc gia này.
2023
NỖI CÔ ĐƠN CỦA NGƯỜI GIÀ
NỖI CÔ ĐƠN CỦA NGƯỜI GIÀ
Những ai đã và đang bước vào tuồi già, khoảng từ 70 tuổi trở lên, thường phải đối mặt với một nỗi sợ khủng khiếp, đó là sự cô đơn của tuổi già. Cô đơn không hẳn là do không có người thân hay do hoàn cảnh neo đơn, mà là do những yếu tố rất đặc thù khiến người già phải rút lui vào thế giới riêng của mình. Ở thế giới đó họ phải chiến đấu với mọi thứ khó khăn như tâm trạng chán nản bi quan, nỗi buồn quạnh hiu, bệnh tật triền miên, sự xa cách của xã hội, sự thiếu thốn vật chất, phương tiện này nọ vv…
Do đó, thách thức lớn nhất của người già là phải đối diện với nỗi cô đơn của chính mình. Chúng ta biết rằng, khi tuổi già ập đến, bạn bè và người thân lần lượt ra đi, những người già dễ lâm vào cảnh muốn thu mình lại, ít tiếp xúc với thế giới xung quanh. Khả năng nghe-nhìn (thính lực, thị lực) và sự vận động trở nên sút kém và khó khăn nên càng khiến họ khó giao tiếp với xã hội hơn. Mặt khác, những người già cũng có xu hướng không muốn kết bạn mới. Chính điều này khiến cho tỉ lệ người cao tuổi cô đơn có xu hướng cao hơn những lứa tuổi khác.
Hiện nay, các nhà xã hội học và tâm lý học rất quan tâm tới giới già và những vấn đề riêng của họ. Người ta cũng cố gắng đưa ra những giải pháp thích hợp nhất nhằm giúp người già thoát cảnh cô đơn và lên tiếng khuyến cáo xã hội quan tâm và đầu tư nhiều hơn vào việc giúp người già được có cơ hội sống vui, sống khỏe và sống hạnh phúc.
1-Tình trạng cô đơn của người già tại VN và các nước trên thế giới
Theo kết quả điều tra quốc gia về người cao tuổi Việt Nam, dân số Việt Nam đang “già hóa”. Tỷ lệ người trên 60 tuổi dự báo sẽ chiếm 20,7% dân số vào năm 2040, so với 10,2% năm 2014. Bên cạnh đó, cấu trúc gia đình Việt Nam đang thay đổi rõ rệt, nếu năm 1993 có tới 80% người cao tuổi sống với con cái thì năm 2010, tỷ lệ này chỉ còn 69,5%. Đã có một nhóm người trẻ coi việc tách ra ở riêng khỏi cha mẹ sau 18 tuổi là chuyện bình thường. Điều đáng buồn là, ngay cả khi sống cùng với con cháu, nhiều người già vẫn cảm thấy cô đơn khi không nhận được sự quan tâm, chia sẻ thích đáng. Không ít người già đang bị bỏ rơi ngay chính trong ngôi nhà của mình, giữa người thân của mình. [1]
Chúng ta biết rằng, hàng năm có một ngày gọi là Ngày Quốc Tế Người Cao Tuổi viết tắt IDOP (International Day of Older Persons). Đó là một ngày hành động quốc tế do Liên Hiệp Quốc đặt ra nhằm tuyên truyền cổ động cho việc chăm sóc, bảo vệ các người cao tuổi trong mọi nước thành viên vào ngày 1 tháng 10 hàng năm. Việt Nam cũng tham gia ngày này và tại các địa phương đều có tổ chức phát quà mừng thọ quý cụ ông cụ bà trên 70 tuổi.
Tại châu Âu, theo thống kê, số người già cô đơn càng lúc càng nhiều, chiếm tới hơn 30% dân số. Tuổi thọ kéo dài một mặt thể hiện sự phát triển của quốc gia, mặt khác nó cũng mang lại nhiều vấn đề, đặc biệt là vấn nạn cô đơn của người già. Cô đơn là một trong những căn bệnh đáng sợ nhất mà người cao tuổi phải đối diện trên toàn cầu. Đến nỗi, có những cụ già ở Nhật cố tình ăn trộm để được vào tù sống cho đỡ buồn.
Chính phủ các nước phát triển đã tìm nhiều cách để người già được hưởng sự chăm sóc tốt nhất. Ở Vương quốc Anh có “Bộ Cô đơn”. Ở nhiều nước phát triển, các đường dây nóng mở ra chỉ để người già có nơi gọi điện tâm tình, hoặc có những phong trào tình nguyện khuyến khích thanh niên tới thăm hỏi người già, trò chuyện và đọc sách, ăn với họ bữa cơm. Có những nơi chính phủ khuyến khích con cái đón cha mẹ về sống chung. Bù lại, họ sẽ được giảm giờ làm, giảm thuế hoặc được hưởng thêm ưu đãi trong chăm sóc y tế, sức khỏe. [1]
Tại Anh quốc, các nhà vận động ước tính nước này đang có khoảng 1,2 triệu người cao tuổi phải sống trong cảnh cô đơn. Những cuộc điện thoại hay các cuộc viếng thăm định kỳ theo tuần của những người tình nguyện đang được xem là một phần giải pháp giúp tình hình trở nên dễ chịu hơn.
Theo tổ chức Phi Chính phủ có tên “Người-cao-tuổi” của Anh, ở nước này đang có khoảng 1,2 triệu người cao tuổi phải sống trong cảnh cô đơn “kinh niên”. Tình trạng này ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe cả về thể chất và tinh thần của người già. Bà Caroline Abrahams, giám đốc tổ chức “Người-cao-tuổi” của Anh cho biết: “Sự cô đơn có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và sự hạnh phúc của người già. Điều này có thể nhìn thấy rõ về mặt tinh thần khi tình trạng trầm cảm ở người già thường trở nên nghiêm trọng hơn vì cô đơn”.
Không chỉ dẫn tới những nguy cơ về sức khỏe tinh thần, tình trạng cô đơn còn liên quan chặt chẽ đến bệnh tật, thậm chí là tử vong ở người cao tuổi. Các nghiên cứu gần đây đã cho thấy những người già sống tách biệt với xã hội thường có sức khỏe kém hơn và tử vong sớm hơn so với những người duy trì được sự gắn kết chặt chẽ với xã hội dù mối quan hệ nhân quả giữa việc cô đơn và bệnh tật đến nay vẫn chưa được chứng minh rõ ràng. Theo các nhà nghiên cứu của trường Đại học Lancaster, sự cô đơn có thể tăng nguy cơ tử vong thêm 26%.
Cũng theo nghiên cứu của trường Đại học Lancaster, có một điều trớ trêu là khi sự liên lạc trở nên dễ dàng hơn thì sự cô lập và cô đơn cũng gia tăng nhanh chóng hơn, đặc biệt là ở người cao tuổi.
Ước tính, có đến 3,9 triệu người già ở Anh xem TV là “người bầu bạn” tuyệt vời nhất. Thách thức trong việc giải quyết tình trạng cô đơn ở người lớn tuổi ở Anh đang trở nên khó khăn hơn khi tuổi thọ của người dân ở nước này được cải thiện. Ước tính, trong vòng 20 năm tới, tổng số dân từ 85 tuổi trở lên ở Anh sẽ tăng lên từ khoảng gần 1,3 triệu người hiện nay lên thành 2,8 triệu người.
Số liệu thống kê của Cơ quan y tế quốc gia của Anh cho thấy tình trạng trầm cảm ảnh hưởng tới khoảng 22% đàn ông và 28% phụ nữ trên 65 tuổi ở Anh. Tuy nhiên, theo các nhà tâm lý học ở Viện tâm lý hoàng gia Anh, 85% những người già bị trầm cảm không nhận được sự giúp đỡ từ cơ quan y tế. Vấn đề càng trở nên khó xử trí hơn khi một nghiên cứu của một nhóm bao gồm 9 tổ chức hoạt động vì người già ở Anh chỉ ra rằng có đến hơn 1 nửa trong số những người từ 50 tuổi trở lên sử dụng mạng xã hội Gransnet cho biết họ chưa bao giờ kể với người khác về tình trạng đơn độc mà họ gặp phải. [2]
Tại Nhật Bản, theo số liệu thông kê đầu năm 2019, trong số những cụ ông cao tuổi sống một mình, chỉ có 15% thường xuyên nói chuyện với một người khoảng hai tuần một lần, trong khi đó khoảng 30% cảm thấy không thể nói chuyện với bất kỳ ai và không có người nào đáng tin cậy để họ có thể nhờ giúp đỡ như là thay bóng đèn…
Theo cuộc khảo sát của Viện nghiên cứu an sinh xã hội và dân số quốc gia Nhật Bản, dân số đang già hóa nhanh chóng, có 28% người Nhật ở trên độ tuổi 65, cao nhất thế giới, đặt ra nhiều thách thức cho các nhà hoạch định chính sách đặc biệt là sự cô lập xã hội là vấn đề khó giải quyết hơn cả.
Tỷ lệ những người phụ nữ trên 65 tuổi sống một mình đã tăng gấp đôi từ 11,2% năm 1980 lên 20,3% vào năm 2010, trong khi đó, tỷ lệ này ở nam giới là tăng từ 4,3% lên 11,1% so với cùng kỳ. Trước thực trạng những người cao tuổi ở Nhật Bản sống trong cô độc đã gây ra một hiện tượng xã hội có tên là Kodokushi, một bóng đen đang bao trùm lên Nhật Bản mà không thể nào tìm được lối thoát.
Kodokushi hay còn gọi là những cái chết cô đơn, phản ánh thực tế xã hội Nhật Bản, những người già sống cô độc, khi chết đi không một ai hay biết và thi thể của họ chỉ được phát hiện trong một thời gian dài sau đó. Tòa nhà chung cư Tokiwadaira tại Nhật Bản đã trở nên nổi tiếng vì những cái chết cô đơn của người già sinh sống nơi đây. [3]
2-Một vài giải pháp nhằm giúp người già bớt cô đơn và đỡ bệnh tật
Bà Caroline Abrahams, giám đốc tổ chức “Người-cao-tuổi” của Anh cho biết: “Sự cô đơn có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và sự hạnh phúc của người già. Điều này có thể nhìn thấy rõ về mặt tinh thần khi tình trạng trầm cảm ở người già thường trở nên nghiêm trọng hơn vì cô đơn”. Như vậy, sự cô đơn sẽ có nguy cơ đẩy người già vào tình trạng đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần. Họ dễ mắc những chứng bệnh nguy hiểm về tim mạch, tiêu hóa, thần kinh, hô hấp. Các bệnh này thường trở nên mãn tính, khiến người già phải chịu đựng suốt đời.
Mặt khác, khi cô đơn trở thành tình trạng thường xuyên kéo dài, có thể khiến nhiều người già rơi vào tình trạng trầm cảm nặng nề. Trong một báo cáo tại Anh của chiến dịch kêu gọi chống lại trầm cảm Jo Cox Loneliness, chỉ riêng ở quốc gia này đã có tới 9 triệu người đang ngày ngày phải chịu cảm giác cô đơn và sự tách biệt với xã hội.
Cảm giác ấy khiến con người ta dễ trầm cảm hơn, và thường là lý do dẫn đến tình trạng tự sát. Những người cô đơn cũng có rủi ro mắc các bệnh liên quan đến khả năng nhận thức cao hơn tới 64%. Tác hại không chỉ dừng lại ở đó, cảm giác cô đơn làm tăng nguy cơ béo phì, cao huyết áp dẫn đến tử vong sớm lên tới 26%. Con số này cũng tương đương với rủi ro khi hút tới 15 điếu thuốc/ngày. Một số bác sĩ cũng đưa ra lời cảnh báo rằng, cảm giác cô đơn còn khiến con người ta “cố tình” mắc bệnh. Tức là, họ muốn đến gặp bác sĩ nhiều hơn để có cảm giác được quan tâm, chăm sóc, và điều này vô tình tạo áp lực cho ngành y. [4]
Thực vậy, cô đơn khiến người cao tuổi thêm bệnh. Ngày càng nhiều người đối mặt với sự cô đơn và sống trong tình trạng cô lập khi về già. Theo giáo sư John Cacioppo thuộc Đại học Chicago (Mỹ): Những người già cô đơn có mạch máu giòn hơn, điều này khiến họ dễ mắc bệnh tăng huyết áp, cơ thể viêm nhiễm cũng như suy giảm trí nhớ nhanh hơn với người bình thường.
Người già cô đơn sẽ mất tự tin nên sợ các hoạt động xã hội và do đó lại càng tự cô lập mình nhanh hơn. Nhiều nghiên cứu cho thấy số người chết vì cô đơn nhiều gấp đôi số người chết vì béo phì.
Đặc biệt, người cao tuổi sống một mình thường có nguy cơ mắc bệnh trầm cảm cao. Đối với người cao tuổi, trầm cảm có thể có biểu hiện triệu chứng và cấp độ khác nhau. Nhiều người già và gia đình họ không nhận ra các triệu chứng của bệnh trầm cảm, không biết rằng trầm cảm là một căn bệnh và không biết làm thế nào để xử lý được. Nhiều người thậm chí nhầm lẫn các triệu chứng của bệnh trầm cảm là dấu hiệu của sa sút trí tuệ, bệnh Alzeheimer, viêm khớp, ung thư, bệnh tim, parkinson, đột quỵ hay rối loạn tuyến giáp. Chính sự nhầm lẫn tai hại này khiến cho người già bị trầm cảm không được phát hiện và điều trị kịp thời.
Trên thực tế, ta thấy rằng, không phải bất kỳ người già nào cũng bị suy sụp trong thế giới riêng của mình, để rồi phải sống và chết trong sự cô đơn thảm thương của họ. Có người sống lạc quan yêu đời như lúc còn trẻ. Có người tập thích nghi dần dần với nỗi cô đơn “một mình ta với ta”. Có người rút lui sống xa cách thế giới ngoài mình để cho ngày tháng trôi đi một cách tuyệt vọng. Người già cô đơn nhiều hay ít là do thái độ chấp nhận của họ đối với hoàn cảnh sống đặc thù của mình.
Trước những thay đổi, người già cũng có những cách đón nhận khác nhau. Nhà tâm lý học E. Erikson đưa ra nhận xét về 3 cách thích nghi với tuổi già:
-Một số người chấp nhận bản thân một cách thực tế và đi vào tuổi già một cách suôn sẻ. Họ tìm được sự thỏa mãn trong cuộc sống và các quan hệ thường ngày. Họ cảm thấy họ đã sống có ích và có ý nghĩa, không có gì làm cho họ phải hối tiếc khi về già.
-Số khác chấp nhận tuổi già một cách thụ động và vui lòng đón nhận cơ hội nghỉ ngơi đối với gánh nặng trách nhiệm.
-Một số không ít người không thích nghi với tuổi già. Họ không chấp nhận đời sống thụ động hơn sự bất lực. [5]
Dù trong hoàn cảnh nào, người già vẫn luôn cần đến sự quan tâm và nâng đỡ của nhà nước, xã hội và các tôn giáo.
. Hãy đến với người già:
Đó là phương cách đơn giản nhất nhằm giảm bớt nỗi cô đơn thường xuyên gặm nhấm họ. Ngoại trừ trường hợp “cô đơn tự nguyện”, mọi người già cách chung cần sự hiện diện của một ai đó bên cạnh họ. Nếu là con cháu hay người thân trong gia đình, chúng ta nên thường xuyên lui tới thăm viếng, trò chuyện, an ủi, khích lệ ông bà cha mẹ già yếu của mình. Các ngài thích gì cung cấp cho các ngài cái đó. Có thể một cuốn sách, một bộ cờ tướng, một cái iPhone, một đôi giày hay một cái xe đạp thể thao, một cái TV nhỏ, một cái máy đo huyết áp điện tử, một cái thẻ bảo hiểm y tế và nhân thọ vv.
Sự yêu mến và quan tâm của chúng ta sẽ giúp người già trút bỏ được mặc cảm bị bỏ rơi xa cách, mặc cảm tự ti mình là người vô dụng, sống ngoài lề xã hội. Có người đã nói: “Cô độc thật sự đáng sợ đấy, nhưng không đáng sợ bằng việc cảm thấy cô đơn trong một mối quan hệ” (Amedia Earhart). Người già sẽ rất buồn tủi khi mọi người xung quanh, nhất là con cháu và người thân, vô tình hay hữu ý, tạo một bức tường ngăn cách khiến cho họ cảm thấy cô độc trong thế giới xung quanh họ.
. Hãy tạo cho người già có cơ hội làm mới cuộc đời:
Chúng ta biết rằng một trong những nét tâm lý đặc trưng của tuổi già đó là thường mắc “Hội chứng về hưu”, thường có những biểu hiện trống trải, buồn chán, cô đơn, dễ cáu gắt, thiếu tự tin, hay nghi ngờ. [5] Do đó, chúng ta nên tìm mọi cách để “làm mới” con người và cuộc sống của họ.
Thỉnh thoảng đó đây, người ta thấy nhiều người lớn tuổi, có khi trên 80, 90 tuổi, cũng tích cực tham gia vào các hoạt động ngoài xã hội như thể thao, văn hóa, nghệ thuật. Có cụ lập kỷ lục bằng cách nhảy dù từ trên cao. Có cụ dự thi bơi lội. Có cụ khác luyện tập thể hình. Có cụ tham gia biểu diễn một nhạc cụ nào đó. Có nhiều trường hợp, khi bước vào tuổi già, cao niên rồi người ta mới phát huy những tài năng bẩm sinh. Do đó, nếu xã hội quan tâm giúp đỡ thì người già cũng có thể trở thành nổi tiếng như bao nhiêu tài năng khác.
Ngày nay, chúng ta có thể chứng kiến nhiều người già cắp sách đến trường hay đến giảng đường đại học. Họ say mê học hỏi và đạt được thành tích học tập cao. Có người đã giành được mảnh bằng cử nhân, tiến sĩ giữa những người đồng môn trẻ tuổi đáng con cháu họ.
Chuyện người già làm nên kỳ tích không hiếm. Tại VN, ở Hà Nội có cụ bà 97 tuổi tên Thi nổi tiếng, được phong “sành sỏi Internet nhất Việt Nam”. Cụ từng nói rằng cụ từng bị ung thư 3 năm nay, nhưng còn sức thì còn học. Cụ Thi từng khẳng định mình thích thì mình học thôi, học là học chứ đâu cần biết học để làm gì. Được biết ngoài khả năng sử dụng laptop để viết lách, vụ còn say mê hội họa và đã từng vẽ những bức tranh được nhiều người khen ngợi.
Trong khi đó ở Saigon, ai cũng biết đến cụ Mạc Can một nghệ sĩ rất đa tài. Cụ tên thật Lê Trung Can sinh năm 1945 là một nghệ sĩ ảo thuật đồng thời cũng mới nổi lên nhờ tài viết văn, viết sách. Cụ đã từng tham gia vào nhiều lĩnh vực hoạt động nghệ thuật như đóng hài, đóng phim, biểu diễn ảo thuật và viết văn. Riêng trong lãnh vực viết văn, cụ là tác giả của tiểu thuyết nổi tiếng “Tấm ván phóng dao”. Được biết, cụ Can bắt đầu viết văn lúc tuổi sắp bước sang lục tuần. Nhưng nhờ đam mê, cụ đã thành công và nổi tiếng khắp nước.
Có thể nói, ngày nay nhờ mạng xã hội phát triển nên các cụ có cơ hội tiếp cận với văn minh nhân loại, đồng thời có điều kiện tương tác với mọi người, mọi lớp tuổi, mọi đất nước trên toàn cầu.
Nghiên cứu từ Kaspersky Lab và B2B International cho thấy, trên toàn cầu, số lượng người già truy cập internet đang tăng khá nhanh. 84% người dùng ở tuổi 55 trở lên thường truy cập internet tại nhà nhiều lần trong ngày và 44% dành ít nhất 20 tiếng mỗi tuần cho internet. Tại Anh, tỷ lệ người từ 65 đến 74 tuổi sử dụng internet đã tăng từ 52% vào năm 2011 lên 80% vào năm 2018.
Trong khi đó nghiên cứu từ Đại học Michigan (Mỹ) cho thấy, 95% người cao tuổi cảm thấy từ hài lòng đến rất hài lòng với việc công nghệ giúp cuộc sống của họ bớt cô đơn hơn vào lúc xế chiều. Ngoài ra, người lớn tuổi có khả năng chia sẻ tin tức giả gấp gần 7 lần so với thế hệ trẻ.
Như vậy, ta thấy rằng người già không hẳn là những người bỏ đi, trái lại nếu họ có cơ hội và có đất để phát huy sở trường thì chắc chắn tài năng của họ sẽ lộ diện và điều đó cũng có nghĩa là họ vẫn có thể giúp ích cho xã hội mặc dù tuổi tác đã xế chiều.
. Hãy kính trọng, yêu thương họ thay vì hất hủi, khinh chê họ:
Mọi người đều biết rằng, trong việc chăm sóc người lớn tuổi, điều cần thiết nhất là yêu thương và kính trọng các ngài. Người ta thường nói, “tuổi già như là một bệnh viện, họ phải nhận đủ thứ bệnh!”. Chính vì vậy người già cần được yêu thương chăm sóc một cách hết sức đặc biệt. Khi thực hiện việc chăm sóc ông bà, bố mẹ lúc tuổi già, chúng ta lưu ý mấy điều sau:
a- Thuốc thang đầy đủ lúc cha mẹ già ốm đau;
b- Chăm sóc các người cao tuổi một cách thành tâm, chân thực đúng với tấm lòng kính trọng “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Con cái cần chú ý tạo điều kiện cho người cao tuổi tham gia một số công việc lặt vặt trong gia đình đặc biệt là chăm sóc dạy dỗ các cháu nhỏ. Làm như vậy các cụ cảm thấy vui và không có mặc cảm mình là người vô dụng.
Về khía cạnh mục vụ người già, tác giả Millibald Demal, OSBDD, trong cuốn “Practical Pastoral Psychology” đã viết như sau: “Ðiều tối quan trọng là tỏ ra kính trọng những người già, kiên nhẫn chịu đựng những yếu đuối của họ, chuẩn bị cho họ chết lành qua việc đền tội, ăn năn tội, cầu xin cho được ơn bền đỗ và lòng kiên vững. Họ đặc biệt biết ơn ta nếu ta chỉ cho họ thấy những hạnh phúc đời sống vĩnh cửu, ơn sủng của Thiên Chúa và giá trị lớn lao trong khi chịu đựng những đau khổ một cách nhẫn nại. Họ sẽ rất sẵn sàng nhận lãnh các bí tích thường xuyên hơn, kính mến Ðức Mẹ và Thánh Giuse và cầu nguyện cho các đẳng linh hồn nơi luyện ngục”./. [5]
Aug. Trần Cao Khải
______________
[1]https://vnexpress.net/goc-nhin/nguoi-gia-co-don-3798019.html
[2]https://baomoi.com/ca-trieu-nguoi-cao-tuoi-heo-hon-vi-co-don
[4]https://www.phunuonline.com.vn/nguoi-gia-so-co-don-vo-dung-a1394427.html
[5]http://www.cgvdt.vn/cong-giao-viet-nam/tim-mot-duong-huong-muc-vu-cho-nguoi-cao-tuoi_a3848
2023
Đức Hồng y Jean-Claude Hollerich: Thượng Hội đồng không phải là Vatican III
Đức Hồng y Jean-Claude Hollerich: Thượng Hội đồng không phải là Vatican III
ĐỨC HỒNG Y JEAN-CLAUDE HOLLERICH:
THƯỢNG HỘI ĐỒNG KHÔNG PHẢI LÀ VATICAN III
Gerard O’Connell
– Hôm 30.06 vừa qua, cùng với Đưc Hồng y Mario Grech, Tổng thư ký, Đức Hồng y Jean-Claude Hollerich, Tổng Tường trình viên của Thượng Hội đồng, đã gặp và nhận từ Đức Thánh Cha Phanxicô bản danh sách tên của 363 tham dự viên Đại hội Thượng Hội đồng sẽ khai mạc tại Roma vào ngày mồng 4. 10 tới đây.
Với tư cách là Tổng Tường trình viên, Đức Hồng y Jean-Claude Hollerich sẽ có vai trò quan trọng đối với Đại hội thường lệ lần thứ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục về hiệp hành. Cụ thể, trong Khoá họp thứ nhất vào tháng 10. 2023, trước hết, Đức Hồng y Hollerich sẽ có bài phát biểu trước Đại hội toàn thể vào ngày mồng 05.10; tiếp đến, ngài sẽ phát biểu khi bắt đầu cuộc thảo luận về từng phần trong Tài liệu làm việc (Instrumentum Laboris). Ngoài ra, ngài cũng sẽ chủ trì việc soạn thảo bản văn tập hợp các thành quả của khoá họp này, và khởi động công việc cho khoá họp thứ hai vào tháng 10.2024.
Nhân dịp này, vào chiều ngày 30.06, phóng viên Gerard O’Connell đã có buổi phỏng vấn độc quyền trong hơn một giờ đồng hồ bằng tiếng Anh với Đức Hồng y Jean-Claude Hollerich (ĐHY) tại trụ sở trung ương của Dòng Tên ở Rôma. Dưới đây là những điểm nổi bật của buổi phỏng vấn này.
Sự quan tâm của Đức Thánh Cha dành cho Thượng Hội đồng về hiệp hành
Khi bắt đầu buổi phỏng vấn, ĐHY cho biết rằng Đức Thánh Cha Phanxicô đang theo dõi sát sao toàn bộ tiến trình Thượng Hội đồng. Ngài nói:
Thật vui biết bao khi thấy Đức Thánh Cha hết sức quan tâm theo dõi Thượng Hội đồng. Đức Thánh Cha đã đọc mọi thứ; ngài tham gia rất nhiều, và biết về tất cả các chi tiết.
ĐHY cũng thừa nhận rằng, đôi khi chính bản thân ngài đã lo ngại rằng tiến trình Thượng Hội đồng có thể không đi đến đâu, “nhưng rồi tôi thấy Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn chúng ta ra sao” trong 2 giai đoạn đầu tiên của tiến trình Thượng Hội đồng – giai đoạn lắng nghe ở cấp giáo phận và quốc gia (2021-22) và giai đoạn châu lục (2023).
Thật đáng kinh ngạc với những gì đã được thực hiện trong một thời gian ngắn như vậy, và tất cả những người tham gia vào tiến trình này đều cảm thấy mình là một phần của tiến trình ra sao, và còn hạnh phúc hơn nữa khi, với tư cách là người Công giáo, là Kitô hữu, họ cảm thấy hiệp thông hơn không chỉ với nhau mà còn với Thiên Chúa là Cha chúng ta. Đối với tôi, đây là một dấu chỉ thực sự. Và điều này mạnh mẽ hơn những lo lắng mà tôi có lúc ban đầu.
ĐHY đã tham dự các Đại hội châu lục của Châu Âu ở Praha, của Châu Á ở Bangkok, của Châu Phi ở Addis Ababa, và của Châu Mỹ Latinh ở Bogotá. Ngài không thể tham dự Đại hội của Châu Đại Dương ở Suva, Fiji, vì trùng với Đại hội của Châu Âu. Tuy nhiên, Sơ Nathalie Becquart, X.M.C.J., phó Tổng thư ký Thượng Hội đồng, và Đức Cha người Úc, Timothy Costelloe, người mà ĐHY gọi là “một trong những cộng tác viên thân cận của chúng tôi”, đã tham dự Đại hội và tường thuật cho ngài về những gì đã xảy ra. Theo ĐHY,
Tôi cảm thấy mình phải có mặt tại các Đại hội cấp Châu lục và lắng nghe dân Chúa. Điều quan trọng là phải nghe những tiếng nói khác nhau, để mang lại công lý cho mọi người; nếu không, sẽ có nguy cơ là bạn có khái niệm của riêng mình và bạn cố để thúc đẩy thông qua điều đó. Vì vậy, với tư cách là tường trình viên, bạn phải lắng nghe mọi người, lắng nghe dân Chúa và lắng nghe các châu lục khác nhau.
Suy tư về những Đại hội này, ngài cho biết:
Tôi thấy rất nhiều người trên khắp thế giới đến với nhau, cầu nguyện và bước ra với cùng một cảm nghĩ. Đối với tôi, điều đó thật tuyệt vời. Tôi -chúng tôi – có thể cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Vì vậy, tôi tin rằng Thiên Chúa sẽ tiếp tục truyền cảm hứng cho chúng ta trên hành trình hiệp hành này.
ĐHY đã báo cáo mọi việc với Đức Thánh Cha, và từ cuộc trao đổi với Đức Thánh Cha, ĐHY đưa ra kết luận: “Tôi nghĩ Đức Thánh Cha Phanxicô rất tự tin…. Nhưng ngài không tự tin thái quá, có nghĩa là ngài cũng nhìn thấy những khó khăn… mọi sự như đều được khuấy động lên”.
Những bước phát triển mới trong tính hiệp hành Công giáo
ĐHY đồng ý rằng Thượng Hội đồng Giám mục về hiệp hành rất khác so với bất kỳ Thượng Hội đồng Giám mục nào khác kể từ khi Đức Phaolô VI lần đầu tiên thiết lập vào ngày 15. 09.1965, theo yêu cầu của Công đồng Vatican II (1962-1965). ĐHY nhận xét, “Đây thực là một sự phát triển, chính Đức Phaolô VI đã chỉ ra rằng có thể có sự phát triển hơn nữa trong tính hiệp hành”.
Theo ĐHY, kể từ khi Đức Phanxicô trở thành giáo hoàng, “bạn thấy một sự phát triển trong tất cả các Thượng Hội đồng” xét về các cuộc thỉnh vấn trước cuộc họp Thượng Hội đồng. Tại Thượng Hội đồng về Gia đình (2014-15), “có một số vấn đề vẫn còn rất phức tạp để mọi người hiểu được”. Đối với Thượng Hội đồng về Giới trẻ (2018), “Đã có một tiền-Thượng Hội đồng về giới trẻ, và rất nhiều điều những người trẻ nói lên đã được đưa vào tài liệu làm việc của Thượng Hội đồng”. Sau đó, đối với Thượng Hội đồng về lưu vực Amazon (2019), “bạn đã có REPAM [Mạng lưới Giáo hội vùng Amazon] và một mạng lưới chuẩn bị toàn thể”. Và hiện nay, đối với Thượng Hội đồng này, “một bước nữa đã được thực hiện; đã có cả một tiến trình là một phần của Thượng Hội đồng, và Thượng Hội đồng Giám mục sẽ được tổ chức vào tháng 10.2023 và tháng 10.2024 chỉ là bước hoàn tất của toàn bộ tiến trình đó”.
Mặc dù nam nữ giáo dân, tu sĩ, giáo sĩ, “những người không phải là giám mục”, sẽ tham gia Đại hội với tư cách là “thành viên” Thượng Hội đồng và có quyền bỏ phiếu cùng với các Giám mục, thì đó vẫn sẽ được gọi là một “Thượng Hội đồng Giám mục”. ĐHY giải thích rằng giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ từ các quốc gia và châu lục khác nhau hiện diện “có một chức năng đặc biệt: Họ là những chứng từ cho tiến trình hiệp hành” đã diễn ra.
“Về phần mình, các giám mục có trọn vẹn trách nhiệm mục vụ của sự phân định cuối cùng, nhưng các ngài không thể phân định rõ ràng về bất cứ điều gì. Có một phương pháp để phân định, và trước hết phải có kinh nghiệm lắng nghe trước khi phân định. Và vì vậy, những chứng từ này thực sự bảo đảm rằng Thượng Hội đồng Giám mục là một tiến trình trong tính liên tục với những gì đã xảy ra trước đó”.
Theo qui định của Đức Thánh Cha, giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ tham gia với tư cách là thành viên của Thượng Hội đồng có thể bỏ phiếu cho lần thứ nhất. Tuy nhiên, ĐHY nói rằng việc bỏ phiếu có thể không phải là một yếu tố chính trong khoá họp này của Thượng Hội đồng.
Tôi không biết liệu việc bỏ phiếu có quá quan trọng hay không, ít nhất là trong Thượng Hội đồng tháng 10 này. Chúng tôi sẽ có các bàn tròn của các nhóm ngôn ngữ nhỏ. Sẽ có nhiều chia sẻ, phân định trong Thánh Thần. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng đây là một Thượng Hội đồng trong hai khoá họp. Vì vậy, có lẽ không cần phải biểu quyết bất cứ điều gì trong khoá họp thứ nhất này. Nhưng chúng ta sẽ thấy, vì chúng ta sẵn sàng đón nhận mọi tình huống có thể xảy ra.
ĐHY giải thích rằng Thượng Hội đồng là “một sự kiện tâm linh” bắt đầu bằng việc cầu nguyện. Sẽ có một buổi cầu nguyện đại kết tại Quảng trường Thánh Phêrô vào ngày 30.09, và một cuộc tĩnh tâm 3 ngày, từ ngày mồng 1 đến mồng 3.10. Trong thời gian diễn ra Đại hội từ ngày mồng 4 đến 29. 10, sẽ có một số phiên họp toàn thể và nhiều phiên họp nhóm nhỏ, và mỗi phiên họp sẽ bắt đầu với việc cầu nguyện. “Tiến trình tâm linh phải được thực hiện, bởi vì nếu không, chúng ta rất gần với cái gọi là quốc hội”.
ĐHY nói thêm:
Tôi nghĩ rằng bằng sự trải nghiệm, chúng ta cũng phải nhận thấy sự hiệp hành Công giáo điển hình sẽ khác với sự hiệp hành Chính thống và Tin lành, điều đó không có nghĩa là chúng ta muốn hạ thấp những gì họ đang làm. Sự hiệp hành Công giáo sẽ phải bao hàm tính hiệp đoàn của các giám mục; cũng sẽ phải bao hàm Quyền tối thượng của Phêrô theo truyền thống Công giáo; và dựa trên tiến trình phân định. Vì vậy, hiệp hành Công giáo rất khác, chẳng hạn như, với Giáo hội Luther của Đức, nơi một số người thậm chí còn gọi Thượng Hội đồng của họ là “nghị viện Giáo hội”. Tính hiệp hành Công giáo không phải như vậy.
Đồng thời, ngài cũng nhấn mạnh rằng:
Có những tiến trình cần phải tuân thủ. Mỗi nhóm nhỏ, mỗi bàn tròn sẽ có một điều phối viên hỗ trợ nhóm. Nhưng tôi không thể xác định trước mỗi nhóm sẽ phản ứng như thế nào vì các tham dự viên là tự do. Vì vậy, không phải là chúng tôi đã thiết kế một cách thức cụ thể, mà theo đó, các tham dự viên phải hành xử sao cho phải đưa ra một số kết luận nhất định. KHÔNG! Đó thực sự là một tiến trình mở dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, và đó là những gì cần diễn ra.
Trước đây, đã có một cuộc thỉnh ý rộng rãi trước Thượng Hội đồng về vùng Amazon, nhưng cuối cùng, Đức giáo hoàng Phanxicô cảm thấy rằng chưa có sự phân định đủ về một số vấn đề trong chính Thượng Hội đồng. Là người đã tham dự Thượng Hội đồng Amazon, ĐHY kể lại rằng có một vấn đề “nhận ngay được 2/3 phiếu bầu đa số” và “Đức Thánh Cha xem ra có vẻ không được hài lòng cho lắm”. ĐHY giải thích rằng, tính hiệp hành không phải là vấn đề của “đa số phiếu” hay “sự nhất trí”, đúng hơn, Đức Thánh Cha muốn Đại hội “đạt tới một sự thuyết phục bởi một điều gì đó”.
Ngài cho biết phương pháp sẽ được áp dụng tại Đại hội tháng 10 là yếu tố then chốt giúp các thành viên Thượng Hội đồng phân định. Phương pháp này được gọi là “đối thoại trong Thánh Thần”, và đây là một trong những thành quả thu được từ các giai đoạn lắng nghe và tham gia của Thượng Hội đồng kể từ khi tiến trình bắt đầu vào tháng 10.2021.
ĐHY nhớ lại rằng “thoạt đầu, chúng ta nói về ‘đối thoại tâm linh’, nhưng hiện giờ chúng ta nói về ‘đối thoại trong Thánh Thần”. Trong tất cả các Đại hội cấp châu lục được tổ chức trực tiếp (chỉ có Đại hội cấp châu lục của Hoa Kỳ và Canada được tổ chức trực tuyến), “mọi người đã đề cập đến cách thức đối thoại mới này”. Ví dụ, tại Đại hội châu Á được tổ chức ở Bangkok, “Các đại biểu phải bỏ phiếu về các ưu tiên của bản văn cuối cùng, và họ đã bỏ phiếu theo bàn (nhóm nhỏ) sau khi chia sẻ, chứ không phải bỏ phiếu theo cá nhân”. Như ngài thừa nhận:
Làm việc theo cách này ở Châu Á dễ dàng hơn vì, về phương diện văn hóa, nhóm có tầm quan trọng hơn và các quyết định của nhóm ở đây quan trọng hơn ở châu Âu hoặc Hoa Kỳ. Điều này cho thấy những điều khả thi. Mọi người đều hài lòng với điều đó. Không có ai than phiền. Mọi người đều cảm thấy rằng những gì mỗi người nói lên đều được coi trọng, ngay cả khi không có phiếu bầu cá nhân nào.
ĐHY nói rằng, phương pháp “đối thoại trong Thánh Thần” này là “hoa trái của hiệp hành”.
Đó là kết quả của trải nghiệm mà mọi người đã có được trong tiến trình Thượng Hội đồng ngay từ khi tiến trình này được bắt đầu. Phương pháp này nảy sinh như là một kết quả, như là một phần của kết quả và của việc dân Chúa có thể đi đến một số lập trường chung như thế nào.
Phân tích sâu hơn, ĐHY giải thích rằng Thượng Hội đồng tìm cách phục hồi tính hiệp hành đã tồn tại trong lịch sử trước đây của Giáo hội, nhưng phần lớn đã bị mai một. Do đó, “chúng ta muốn sự toàn vẹn của tính hiệp hành trở lại trong Giáo hội”.
Tài liệu Làm việc cho Khoá họp thứ nhất gồm 3 phiếu làm việc tương ứng liên quan đến Hiệp thông, Sứ vụ và Tham gia. Mỗi phiếu làm việc có 5 câu hỏi chính sẽ đóng vai trò hướng dẫn cuộc thảo luận trong các nhóm nhỏ. Khi mỗi câu hỏi được chia nhỏ thành các câu hỏi phụ, hầu như tất cả các chủ đề chính đã được thảo luận trong các Thượng Hội đồng trước đó trong triều giáo hoàng của Đức Phanxicô đều có trong đó.
ĐHY giải thích rằng những câu hỏi này được đề cập lại “không phải vì chúng tôi đặt chúng ở đó, nhưng vì đó là những vấn đề đã được dân Chúa nêu ra trong các Đại hội”. Tuy nhiên, ngài không quên nhắc lại rằng Thượng Hội đồng lần này không phải là Thượng Hội đồng về những vấn đề đơn lẻ, chẳng hạn như đồng tính luyến ái hoặc phong chức cho phụ nữ; “nhưng đây là một Thượng Hội đồng về tính hiệp hành”, và các đề tài khác “chỉ xuất hiện khi chúng có liên quan đến chủ đề của Thượng Hội đồng”.
Thượng Hội đồng đang thực thi Công đồng Vatican II
Vị Tổng tường trình viên cho thấy rằng:
“Khi nhìn lại các Giáo phụ của Giáo hội, chúng ta biết rằng tính hiệp hành là một phần cốt yếu của Giáo hội. Qua dòng thời gian, tính này đã mai một rất nhiều, nhưng chưa bao giờ biến mất hoàn toàn. Tính hiệp hành luôn tồn tại trong các hội đoàn và dòng tu, v.v. Luôn luôn có các ‘animas’ (tinh thần) hiệp hành. Nhưng giờ đây, chúng ta muốn có lại tính hiệp hành trọn vẹn đó trong Giáo hội để tiếp tục lộ trình mà Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã mở ra”.
Với ngài, điều này có nghĩa là chúng ta “đang quay trở lại Công đồng Vatican II, coi trọng Công đồng Vatican II, và cố gắng thực thi Công đồng Vatican II chứ không phải là Vatican III, như một số người vẫn nói”. Thật vậy,
Công đồng Vatican II đã đưa ra tất cả các yếu tố; chúng tôi chẳng đưa ra yếu tố mới nào cả. Tất cả mọi thứ đều đã có trong Công đồng… Đúng là có nhiều sự thật riêng biệt, nhưng tất cả các sự thật đều gắn liền với con người của Đức Kitô. Chẳng hạn, bạn không thể tách rời hoàn toàn một sự thật khỏi sự mạc khải nơi con người Đức Kitô.
Tiếp cận các đề tài gây tranh cãi
ĐHY cho rằng, có lẽ “sẽ có một sự thay đổi trong cách xử lý các đề tài” và tính hiệp hành có thể là một cách thế để vượt thắng sự chia rẽ về các vấn đề gây tranh cãi.
Một tổ chức như Giáo hội Công giáo có thể đưa ra quyết định như thế nào? Chỉ từ bên trên ư, thật là rất khó. Chỉ từ bên dưới ư, hầu như là không thể. Do đó, chúng ta cần một cách thức mới để đưa ra quyết định, và tôi nghĩ rằng chúng ta cần có các khí cụ trong Thượng Hội đồng để làm việc này.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là tất cả những khác biệt đều được san bằng. Ý tôi là, sẽ rất ngây thơ khi nghĩ rằng mọi người bước ra và chia sẻ những quan điểm giống nhau về tất cả các đề tài trong Giáo hội. Nhưng bạn có thể chấp nhận rằng anh chị em của bạn có quan điểm khác và bạn có thể thông cảm sâu sắc với họ”.
ĐHY cho biết là ngài đã thấy những ví dụ cụ thể về điều này trong các Đại hội Châu lục.
Theo Tài liệu Làm việc, “những vấn nạn chung” và “những căng thẳng chung” đã nổi lên trên toàn thế giới trong 2 giai đoạn đầu tiên của tiến trình Thượng Hội đồng. ĐHY nhận xét:
“Những căng thẳng có thể mang lại rất nhiều hoa trái. Nếu chúng ta sợ căng thẳng, thì hiện chúng ta chẳng thể di chuyển được nữa, bởi vì bất cứ điều gì bạn nói cũng có thể tạo thêm căng thẳng. Nhưng chúng ta phải cùng nhau bước đi như là Giáo hội. Chúng ta phải đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn Giáo hội đi về đâu? Và nếu Giáo hội di chuyển, điều đó sẽ giống như một cuộc xuất hành. Sẽ có một số khoảnh khắc rất thảm khốc, tất nhiên sẽ có những căng thẳng. Nhưng đó là một phần của con đường”.
Khi được hỏi về việc Tài liệu Làm việc nói rằng, sau khoá họp thứ nhất này, liệu có thể sẽ có nhu cầu về những suy tư thần học và thảo luận về những thay đổi trong giáo luật chăng, ĐHY nói rằng, với vị thế của ngài, ngài ngần ngại đưa ra các đề xuất về những thay đổi có thể xảy ra. Dù thế, ĐHY đã đưa ra một ví dụ về vấn đề này qua việc viện dẫn vai trò của giáo xứ và các Hội đồng mục vụ, hiện không bắt buộc theo giáo luật nhưng có thể là sẽ cần thiết trong tương lai.
“Hiện nay, trong giáo luật, đó là một kỳ vọng nhưng tôi nghĩ nó không chỉ là một kỳ vọng. Bởi vì làm sao bạn có thể là một giám mục, là mục tử của Giáo hội mà lại không có cách nào để biết người ta nghĩ gì và cảm thấy như thế nào về Giáo hội?”.
ĐHY giải thích rằng các hội đồng là một cách thế tốt để một Giám mục tiếp xúc với những viễn cảnh mà ngài có thể chưa từng nghĩ tới.
Cho đến nay, tôi là Giám mục được 12 năm. Và xung quanh bạn là một nhóm nhỏ những người ít nhiều có cùng trình độ học vấn với bạn, và ngay cả học cùng trường với bạn, và đó không phải là một cơ sở rộng lớn. Bạn cần một cơ sở rộng lớn hơn; bạn phải tìm hiểu xem mọi người nghĩ gì, ước muốn sâu xa của họ là gì.
Đồng thời, “Điều đó không nhất thiết có nghĩa là bạn phải hoàn thành mọi ước muốn. Đây không phải là một loại Thượng Hội đồng cổ tích”. ĐHY lưu ý rằng điều quan trọng là một giám mục phải có thể giải thích các quyết định của mình cho dân chúng.
“Bạn không thể chỉ nói rằng, tôi là ông chủ, và bạn hãy làm điều đó. Nếu người ta nói với bạn rằng: tôi không hiểu lời giải thích của bạn – vì đó là điều xảy ra tại nhiều điểm trong Giáo hội – bạn phải có khả năng giải thích theo cách mà mọi người có thể hiểu được. Nếu không, họ chẳng thể thực hiện điều đó”.
Định nghĩa về từ Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ
Khi được đề nghị giải thích về chủ đề 3 chiều của Thượng hội đồng là Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ, ngài chia sẻ vài nét chính như sau:
Trước hết, về từ Hiệp thông
Hiệp thông là gì, bởi vì khi nghe thấy từ này, người ta thường nghĩ đến việc Rước lễ (holy Communion) hoặc chia sẻ. ĐHY nhìn nhận sự khó khăn, ngài nói rằng đúng là đã có khó khăn trong việc dịch từ “hiệp thông” trong những khoá họp Thượng Hội đồng trước đó.
Ví dụ, trong tiếng Đức, từ Gemeinschaft, nghĩa là “cộng đoàn”. Bây giờ, cộng đoàn liên quan đến sự hiệp thông, nhưng nó không hoàn toàn là cùng một khái niệm. Khi nghĩ về sự hiệp thông, trước hết tôi nghĩ đến sự hiệp thông giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Vì vậy, trong Giáo hội, phải được thực hiện với sự hiệp thông đó. Hiệp thông liên quan đến hiệp thông với Đức Kitô.
Khi chúng ta tham dự Thánh lễ, như bạn nói, nhờ Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa Cha đặt chúng ta hiệp thông với cái chết và sự phục sinh của Con của Ngài. Vì vậy, đó không chỉ là một cách giải thích mang tính cá nhân về một bí tích. Chính đó là mầu nhiệm của Giáo hội.
Thứ đến, về từ Sứ vụ, ĐHY nói rõ:
Không có Giáo hội mà không có sứ vụ. Nếu chúng ta không có sứ vụ, thì chúng ta là một câu lạc bộ, nơi chúng ta thực hiện một số hoạt động, chẳng hạn như các hoạt động phụng vụ và hoạt động từ thiện. Nhưng chúng ta không phải là một câu lạc bộ; chúng ta có một sứ mạng từ Đức Kitô. Và chúng ta phải chu toàn sứ mạng đó. Và sứ mạng đó không chỉ được trao cho các giám mục và linh mục; mọi người đã lãnh phép Rửa đều được mời gọi sống sứ mạng của Giáo hội, đó là loan báo Đức Kitô, Đấng đã sống lại từ cõi chết. Đó là kerygma [loan báo Tin Mừng] của Giáo hội sẽ được loan báo theo nhiều cách khác nhau.
Chẳng hạn,
Có một kerygma trực tiếp, có ai đó dấn thân vì người tị nạn và người nghèo, có ai đó dấn thân vì môi trường, vì sáng tạo. Đó là một phần sứ vụ của Giáo hội. Đó là cách chúng ta cho thấy là chúng ta tin vào Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết. Và nếu Giáo hội không có sứ vụ, nếu Giáo hội trở thành một câu lạc bộ tiêu thụ mang tính bí tích, thì có điều gì đó không ổn. Và bản chất của các bí tích bị mất đi.
Cuối cùng, về từ Tham gia, ĐHY nói rằng,
Tham gia có nghĩa là sự đồng trách nhiệm của mọi người trong việc thực hiện sứ vụ của Giáo hội nhưng theo những cách thế khác nhau. “Giáo hội là một thân thể, Giáo hội lữ hành, Giáo hội đang di chuyển qua các thời đại. Tôi nghĩ điều này thật là tuyệt vời“.
Kết quả từ Thượng hội đồng sẽ là gì?
Như ĐHY đã nói trên đây rằng, có thể sẽ không có việc bỏ phiếu vào cuối khoá họp tháng 10.2023, nên câu hỏi là liệu ngài có nghĩ rằng Đại hội có thể đưa ra một tài liệu tổng hợp hay không. ĐHY trả lời rằng: “Hoặc chúng ta sẽ có thêm những câu hỏi. Đó cũng là một khả năng”.
Giữa khoá họp 2023 và khoá họp 2024 chúng ta sẽ làm gì ư? Tôi không biết nữa. Điều này sẽ phụ thuộc vào những gì Thượng Hội đồng yêu cầu, bởi vì cho đến nay chúng ta luôn có sự tuần hoàn, luôn quay trở lại các Giáo hội địa phương.
Ngài nói thêm: “Tất nhiên là tôi có nhiều ý tưởng, nhưng đôi khi những ý tưởng thậm chí còn mâu thuẫn với nhau, và với tư cách là tường trình viên, tôi phải rất thận trọng khi phát biểu bất cứ điều gì, bởi vì tôi không muốn bị cho là thao túng Thượng Hội đồng…. Tôi nghĩ rằng chính Thượng Hội đồng phải chỉ ra con đường”.
Khi được hỏi rằng, trở thành Giám mục và đồng thời được Đức Bênêđictô XVI bổ nhiệm làm Tổng giám mục Luxemburg vào năm 2011, thì liệu điều gì đang thay đổi một cách căn bản đối với ĐHY với hành trình Thượng Hội đồng này. ĐHY bộc bạch:
“Chúng ta đang bước đi. Ý tôi là, Công đồng nói rằng hình ảnh của Giáo hội là dân Chúa, bước đi với Đức Kitô. Và tôi cảm thấy điều đó đang xảy ra. Chúng ta đã bắt đầu bước đi và Đức Kitô phải là trung tâm. Nếu Đức Kitô không phải là trung tâm, một số người sẽ bước sang bên phải, những người khác sẽ bước sang bên trái. Chúng ta phải làm việc cùng nhau, với Đức Kitô. Tôi cũng không sợ rằng không phải tất cả các câu hỏi đều sẽ có câu trả lời tại Thượng hội đồng. Bởi vì nếu chúng ta học được trong tiến trình này là làm thế nào để sống với những khác biệt bên trong Giáo hội khi cùng nhau bước đi, thì đó sẽ là một kết quả tuyệt vời”.
Còn với ý kiến về kiểu Giáo hội mà ngài mong đợi sẽ nổi lên trong những năm tới, trước những thay đổi lớn đang diễn ra trong thế giới ngày nay, ĐHY nói lên suy nghĩ của ngài:
“Tôi hy vọng chúng ta sẽ có một Giáo hội không sợ hãi trước những thay đổi của thế giới, một Giáo hội sẽ nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới, cũng như có thể phục vụ thế giới và loan báo Tin Mừng theo cách này”.
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
2023
Nguyên tắc Tham Gia
Nicolas Masson
Nguyên tắc tham gia có phải là người bà con nghèo nàn với các nguyên tắc của Học thuyết Xã hội (HTXH) của Giáo hội không? Sau những nguyên tắc tượng đài như công ích, liên đới hay bổ trợ, nó có thể mang lại điều gì hơn nữa? Vả lại, so với các nguyên tắc khác, nó chỉ có ba đoạn trong cuốn Tóm lược HTXH của Giáo hội Công giáo. Tuy nhiên, nguyên tắc “nhỏ” này là rất quan trọng. Khi nhắc lại trách nhiệm của mỗi người, nó mang lại tất cả sự năng động cho việc thực hiện HTXH của Giáo hội. Quả thế, liệu một gia đình, một hiệp hội, một doanh nghiệp hay một quốc gia có thể sống và phát triển mà không có sự tham gia của các thành viên của mình? Liệu nó có thể liên đới, tôn trọng công ích và bổ trợ mà không có sự tham gia của họ?
Qua nguyên tắc tham gia, cuốn Tóm lược nhắc nhớ rằng mỗi người phải đóng góp “vào đời sống văn hóa, kinh tế, xã hội và chính trị của cộng đồng dân sự mà họ thuộc về. Tham gia là một bổn phận mà tất cả mọi người đều phải thực hiện một cách có ý thức, một cách có trách nhiệm và vì công ích”[1].
Trước hết, mỗi người được mời gọi đảm trách những lãnh vực mà bản thân mình chịu trách nhiệm (gia đình của mình, công việc của mình). Họ cũng được yêu cầu, càng nhiều càng tốt, tích cực cởi mở với đời sống công cộng[2] và vượt trên vai trò công dân của mình, tham gia vào đời sống xã hội.
Bằng cách tham gia vào công ích như thế, con người đáp lại ơn gọi làm người của mình, được tạo dựng để yêu thương và được yêu thương. Bởi vì nó được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. “Con người, thụ tạo duy nhất trên trần gian mà Thiên Chúa muốn vì chính nó, chỉ có thể tìm thấy chính mình một cách trọn vẹn qua việc trao ban chính mình cách vô vị lợi”[3].
Việc thực hiện HTXH của Giáo hội ngang qua hành động tự do của con người mà sự dấn thân “tự nguyện và quảng đại”[4] của họ nhằm phục vụ công ích là cần thiết “mỗi người tùy theo đại vị và vai trò của họ”[5]. Sự tham gia là nền tảng của bác ái xã hội và chính trị (FT 173). Khi hiến mình phục vụ anh chị em của mình, con người xây dựng nền văn minh tình yêu (Cv 33; FT 183).
Do đó, theo thứ tự hành động, sự tham gia chẳng phải là hàng đầu hay sao? Khi một cộng đồng được tạo ra hay trải qua một cuộc khủng hoảng to lớn, có lúc đã không có sự tổ chức hữu hiệu. Vì vậy, sự tham gia của ít nhất một số người là cần thiết để tạo ra hoặc tái tạo cộng đồng. Sự tham gia của tất cả mọi người sẽ được yêu cầu để cộng đồng sống cách trọn vẹn.
Nếu con người nhận được “nghĩa vụ” tham gia, thì nghĩa vụ này chỉ có ý nghĩa nếu con người cũng nhận được các phương tiện và quyền lợi tương ứng. Họ nhận được chúng từ những người khác. Sự tham gia phải được hiểu trong một luồng chuyển động. Bài viết này muốn cho thấy tính trung tâm của nguyên tắc “nhỏ” này.
- Cội nguồn Thánh Kinh
Trong Thánh Kinh, từ “tham gia” không xuất hiện một cách rõ ràng. Cũng không có truyền thống Thánh Kinh rõ ràng nào về chủ đề này. Tuy nhiên, từ sách Sáng Thế ký, các bản văn thánh mời gọi con người dấn thân phụng sự Thiên Chúa, anh chị em mình và toàn thể công trình tạo dựng. Toàn bộ giao ước giữa Thiên Chúa và con người ngụ ý sự dấn thân và trách nhiệm của tất cả mọi người, vượt trên những khác biệt.
Như thế, từ đầu sách Sáng Thế ký, Thiên Chúa đã trao phó cho người công trình tạo dựng của Ngài và tất cả những ai cư ngụ trong đó. “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai”[6]. Theo lệnh truyền này, Thiên Chúa trao phó cho con người khu vườn và cư dân của mình. Nó phải hành động sao cho khu vườn đơm hoa kết trái và hữu ích cho mọi người.
Giao ước đòi hỏi sự tham gia chủ động của dân Ngài, nhưng Thiên Chúa không bao giờ đặt. Ngài bảo vệ dân Israel với điều kiện họ giữ giao ước của Ngài. “Môisê lấy cuốn sách Giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: “Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo”[7]. Về sau, trong sách Samuel, khi dân tuyên bố muốn có một vị vua, Thiên Chúa đã cảnh báo họ[8] nhưng tôn trọng ý muốn của dân: “Hãy nghe theo tiếng chúng, và hãy đặt một vua cai trị chúng”[9].
Trong Tin Mừng theo thánh Mátthêu, mỗi người được mời gọi tham gia. Chẳng hạn, trong dụ ngôn thợ làm vườn nho[10], tất cả mọi người, bất kể họ được thuê vào giờ nào, đều được mời gọi làm việc trong vườn nho của ông chủ. Không ai bị loại trừ, ngay cả những trẻ nhỏ: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như chúng”[11] như những người mong manh nhất.
Mỗi người đều là thừa tác viên của ân sủng của Chúa. Mọi người đều có trách nhiệm với người anh em của mình. Điều này đặc biệt rõ ràng trong dụ ngôn về sự phán xét cuối cùng của Mátthêu: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”[12]. Nơi Luca, người Samaritanô nhân hậu giúp đỡ người lữ khách bị thương, và nói rộng hơn: “Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù”[13]. Trong bốn sách Tin Mừng, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Các con hãy cho họ ăn”[14].
Thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô dạy chúng ta rằng Thiên Chúa “…muốn rằng không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau”[15]. Việc xây dựng Giáo hội đòi hỏi sự tham gia của tất cả mọi người, mỗi người mang đến những món quà của mình theo cách bổ sung cho việc phục vụ xây dựng cộng đồng. Giáo huấn của thánh Phaolô có thể soi sáng không chỉ cho các Giáo hội mà còn cả xã hội.
- Xuất hiện trong học thuyết xã hội
Các dòng tu và đan tu tìm cách sống Tin Mừng một cách triệt để sẽ đẩy nguyên tắc tham gia xa hơn[16]. Mỗi người đều có “quyền tham gia vào các quyết định liên quan đến họ” và vào việc chọn người “được mời gọi quản trị”. Trong Tu Luật của thánh Biển Đức, nếu viện phụ thực thi quyền bính, thì “ngài không bao giờ là nguồn gốc của luật” . Chỉ hội đồng mới có thể lập pháp trong các giới hạn mà tu luật trao cho ngài. Cũng chính hội đồng bầu chọn viện phụ. Các quy luật này sẽ tham gia gián tiếp vào quá trình thử nghiệm các quy luật dân chủ hiện đại[17].
Trong cùng một chuyển động, thánh Catarina Siêna, trong khi mạo muội chất vấn Đức Giáo hoàng, đã không ngần ngại viết trong các cuộc đối thoại của mình: “Cha cũng không cho mỗi người tất cả các nhân đức…Có một số nhân đức mà Cha phân phát theo cách như vậy, đôi khi cho người này, đôi khi cho người kia…Đối với người này, đó là bác ái; đối với người kia, đó là công bằng; với người này là lòng khiêm tốn; với người kia là một đức tin sống động…Đối với của cải vật chất, đối với những thứ cần thiết cho cuộc sống con người, Cha đã phân phát chúng với sự bất bình đẳng lớn[18], và Cha không muốn mỗi người sở hữu tất cả những gì cần thiết cho mình để mọi người có cơ hội, khi cần thiết, thực hành lòng bác ái đối với nhau…Cha muốn họ cần nhau và trở thành thừa tác viên của Cha để phân phát những ân sủng và những món quà hậu hĩ mà họ nhận được từ Cha”[19].
Ngay từ những bản văn đầu tiên của HTXH của Giáo hội, vấn đề tham gia đã hiện diện. Thông điệp Rerum Novarum (Tân Sự) tố giác việc, một mặt, triệt để loại trừ con người khỏi việc chia sẻ của cải và việc phục tùng nô lệ của họ với công việc sản xuất phi nhân. Rerum Novarum đặt nền móng cho nguyên tắc tham gia mà không nêu rõ tên rõ ràng: “Mọi công dân, không có ngoại lệ, phải mang lại phần của mình vào khối lượng của cải chung mà, vả lại, bằng sự hoàn trả tự nhiên, được phân phối lại giữa các cá nhân. Tuy nhiên, những đóng góp của riêng mỗi người không thể giống nhau và cũng không thể ở mức độ ngang nhau”[20].
Trong Rerum Novarum, thuật ngữ “tham gia” được dành riêng cho việc tham gia vào quyền sở hữu. Chỉ trong các thông điệp tiếp theo mà nó sẽ mang một ý nghĩa rộng lớn hơn. Chẳng hạn, sự tham gia liên quan đến tất cả các chiều kích của con trong lao động: bản thân lao động là ”sự tham gia vào công trình của Thiên Chúa”[21], nhưng cũng liên quan đến tất cả những ai làm việc để “phục vụ anh em của mình, một sự đóng góp cá nhân vào việc thực hiện kế hoạch quan phòng trong lịch sử”[22]. Tiếp đến qua “sự tham gia tích cực của tất cả mọi người vào việc quản lý doanh nghiệp”[23] và cuối cùng qua việc tham gia vào những thành quả của lao động và tài sản.
Trong đường hướng của Rerum Novarum, các Đức Giáo hoàng đã đưa ra những định hướng tổng quát hơn về việc tổ chức xã hội bằng cách dựa vào nguyên tắc bổ trợ. Trong Thông điệp Quadragesimo Anno (Tứ Thập Niên), Đức Piô XI đưa ra một định nghĩa tiêu cực đầu tiên, như một điều kiện để mỗi người tham gia. Ngài nhắc lại rằng thật bất công khi lấy đi của “các cá nhân (…) những quyền hạn mà họ có khả năng thực hiện theo sáng kiến của riêng họ và bằng phương tiện riêng của họ”[24]. Đức Bênêđíctô XVI sẽ nêu lên một định nghĩa tích cực: “Nguyên tắc bổ trợ trước hết là sự giúp đỡ nhân vị, thông qua quyền tự quản của các cơ quan trung gian. Sự giúp đỡ này được đề nghị khi nhân vị và các tác nhân xã hội không thể tự mình làm những gì thuộc trách nhiệm của mình và nó luôn ngụ ý rằng chúng ta có một mục tiêu giải phóng vốn thúc đẩy tự do và sự tham gia như là tinh thần trách nhiệm. Nguyên tắc bổ trợ tôn trọng phẩm giá của nhân vị mà nó nhìn thấy nơi nhân vị một chủ thể luôn có khả năng cống hiến điều gì đó cho người khác”[25]. Đức Phanxicô sẽ củng cố vấn đề: “Như thế, nguyên tắc bổ trợ trở thành một thực tại cụ thể bảo đảm sự tham gia và hoạt động của các cộng đồng và các tổ chức cấp dưới bổ sung cho hoạt động của Nhà nước”[26].
Như thế, nguyên tắc tham gia sẽ dần dần được mở rộng sang các lĩnh vực khác của xã hội: đời sống chính trị, văn hóa, tôn giáo, việc thực hiện bổn phận này đòi hỏi nhiều quyền hơn. Liên quan đến lĩnh vực duy nhất của doanh nghiệp, Đức Gioan XXIII trong Thông điệp Mater et Magistra (Mẹ và Thầy), nhấn mạnh đến sự cần thiết phải “giảm bớt hợp đồng lao động bằng các yếu tố vay mượn từ hợp đồng xã hội” , để “công nhân và nhân viên được mời gọi tham gia một cách nào đó vào quyền sở hữu doanh nghiệp, vào việc quản lý nó hay những lợi nhuận mà nó mang lại”[27]. Đức Gioan-Phaolô II nêu rõ rằng mỗi người phải “ (…) ý thức rằng, ngay cả khi mình làm việc trong một sở hữu tập thể, họ cũng đồng thời làm việc vì lợi ích của chính họ”.
Mỗi người đều được mời gọi hành động trong lãnh vực trách nhiệm trực tiếp của mình bởi vì như thánh Gioan-Phaolô II nhắc nhở chung ta về vai trò của giáo dân: “Không có chỗ cho sự thờ ơ, khi có rất nhiều công việc đang chờ đợi tất cả chúng ta trong vườn nho của Chúa”[28]. Quả thế, ngày nay hơn bao giờ hết, tầm quan trọng của các vấn đề xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị và sinh thái chứng tỏ rằng “không ai được phép ngồi yên không làm gì”[29].
- Quyền lợi và bổn phận tham gia
Nguyên tắc tham gia, giống như nguyên tắc bổ trợ, thống nhất quyền lợi và bổn phận nhưng theo cách khác nhau. Bởi vì nguyên tắc bổ trợ giả thiết một tổ chức có phẩm trật, nên nó đưa ra một phẩm trật về các quyền lợi và bổn phận và bảo vệ nhân vị khỏi bị tước đoạt quyền lực từ bên trên. Nguyên tắc tham gia, bởi vì nó khởi đi từ nhân vị, nên mang lại một cái nhìn ngang bằng hơn nhưng cũng giả thiết sự cân bằng giữa quyền lợi và bổn phận. Đức Gioan XXIII nhắc nhở chúng ta: “Trong đời sống xã hội, bất kỳ quyền lợi nào được ban cho một người theo bản nhiên đều tạo ra nơi người khác một bổn phận, bổn phận nhìn nhận và tôn trọng quyền lợi này. Quả thế, mọi quyền thiết yếu của con người đều vay mượn sức mạnh bắt buộc của nó từ luật bản nhiên vốn ban nó và áp đặt nghĩa vụ tương ứng. Trong khi đòi hỏi quyền lợi của mình, những ai quên đi bổn phận của họ hay chỉ chu toàn chúng một cách bất toàn đều có nguy cơ phá hủy bằng tay này những gì họ xây dựng bằng tay kia”[30]. S. Weil giúp chúng ta tiến xa hơn khi bà viết: “Khái niệm “nghĩa vụ” vượt trội hơn hơn khái niệm “quyền lợi”, vốn phụ thuộc và liên quan đến nó. (…). Một người đơn độc trong vũ trụ sẽ không có bất kỳ quyền lợi nào, nhưng người đó sẽ có các nghĩa vụ”[31].
Khi hoạt động chính trị được suy nghĩ từ quyền lợi, điều đó dẫn đến các phương thức vận hành chia nhỏ xã hội. “Tôi có quyền. Đâu là những chiến lược để khiến người ta công nhận chúng?” chứ không phải “Tôi có nghĩa vụ. Chúng phải bàn đến đến điều gì? Ai phải được hưởng lợi chúng?”. Những câu hỏi sau cùng này có nhiều hơn trong cuốn sổ tình yêu. Ai yêu thương thì tự cho mình nghĩa vụ phục vụ người mình yêu thương. Trong Thông điệp Fratelli Tutti (Tất cả đều là anh em), khi giải thích dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu, Đức Thánh Cha Phanxicô đã hướng sự tham gia vào việc phục vụ tha nhân. “Câu kết luận của Chúa Giêsu là một lời yêu cầu: “Ông hãy đi và làm như thế” (Lc 10, 37). Nói cách khác, Ngài thúc giục chúng ta gạt bỏ mọi khác biệt và, trước nỗi đau khổ, hãy trở nên gần gũi với mọi người. Vì thế, tôi không còn nói rằng tôi có “những người thân cận” mà tôi phải giúp đỡ, nhưng đúng hơn tôi cảm thấy được kêu gọi trở nên người thân cận đối với những người khác”[32].
- Mọi người, không trừ ai, đều được mời gọi tham gia
Tất cả mọi người đều được mời gọi tham gia tích cực vào đời sống xã hội và chính trị. Các phương thức có thể đa dạng nhưng phẩm chất của một xã hội hay một cộng đồng có thể được đánh giá bằng khả năng thu hút sự tham gia của tất cả các thành viên của mình và đặc biệt là những người nghèo khổ nhất. Đối với Hannah Arendt[33], người nghèo là người “không có quyền để có quyền” . Đó là người không thể bằng bất cứ cách nào quyết định cuộc sống của mình và đóng góp vào đời sống của nhóm. Như thế, người nghèo bị tước mất một nhu cầu cốt yếu của tâm hồn: cảm thấy mình hữu ích và thậm chí không thể thiếu.
Vì thế, làm cho người nghèo tham gia, trước hết đó là cho phép họ, càng nhiều càng tốt, xác định và trở thành tác nhân của sự phát triển của chính họ. “Chúng ta không thể đối mặt với tai tiếng về nghèo đói bằng cách thúc đẩy các chiến lược kiểm soát vốn chỉ làm cho yên tâm và biến người nghèo thành những con người thuần hóa và vô hại. Thật buồn biết bao khi thấy rằng, đằng sau những việc làm được cho là vị tha, chúng ta giảm thiểu người khác thành thụ động”[34].
Đó cũng chính là làm sao để họ góp phần vào sự phát triển của xã hội. Từ hơn 50 năm qua, phong trào ATD Quart Monde ( Agir tous pour la dignité Quart Monde / Mọi người hành động vì phẩm giá Thế giới thứ tư)[35] nhắc nhở chúng ta rằng không có người nghèo nào mà không thể cho đi. Mời gọi con người cho đi, trong chừng mực những gì họ đã nhận được, đó là nhìn nhận sự cao cả của họ. Để giải thích lại Hannah Arendt, đó là trao cho họ quyền có bổn phận tham gia vào việc xây dựng thành đô.
Đối với các tổ chức, điều đó có nghĩa là họ không chỉ phải ý thức rằng mọi người đều có giá trị màm còn phải xác tín rằng mỗi người đều có thể mang lại điều gì đó độc đáo. Do đó, phát triển sự tham gia, đó là xây dựng một trong những cơ cấu đổi mới vốn tin tưởng hết sức có thể vào mỗi người và cho phép họ hành động theo tài năng của mình.
- Những thể chế chất lượng tạo điều kiện cho sự tham gia
Các thể chế mang lại một khuôn khổ cho sự tham gia của các thành viên của mình: các mục đích theo đuổi; các hình thái chỉ định quyền bính, phân bổ quyền hạn và trách nhiệm, các phương thức quyết định và kiểm soát. Một số thể chế tạo điều kiện cho ý thức trách nhiệm, sáng kiến, thấm chí chấp nhận rủi ro, những tương quan tốt giữa mọi người, sự trợ giúp lẫn nhau… Trái lại, các thể chế khác có xu hương ấu trĩ hóa bằng cách ra lệnh phải làm gì, bằng cách kiểm soát, bằng cách chống đối…[36].
Khả năng dấn thân và hành động cá nhân nhằm phục vụ công ích tùy thuộc vào chất lượng của các thể chế. Trong Thông điệp Caritas in Veritate (Bác ái trong Chân lý), Đức Bênêđíctô XVI rút ra những hệ quả về tầm quan trọng của chúng: “Hành động vì công ích một mặt có nghĩa là chăm sóc, và mặt khác sử dụng toàn thể các thể chế vốn cấu trúc đời sống xã hội, về mặt thể chế, dân sự và văn hóa, một đời sống xã hội mang hình thức của “polis”, của thành đô”[37].
Chăm sóc các thể chế, trước tiên đó là sử dụng chúng. Bằng cách thực hiện quyền biểu quyết của mình khi có quyền này và bằng cách đóng góp vào các cuộc tranh luận. Sự tồn tại của các cuộc tranh luận là thiết yếu đối với đời sống của các thể chế. Chúng có chát lượng khi có sự tôn trọng mỗi người, ý thức về số phận chung và mong muốn chung tiến tới. Không có sự tìm kiếm chung về điều thiện này, các cuộc tranh luận có thể tạo ra ảo tưởng khi chúng không phải là những mưu mẹo để thông qua một cuộc cải cách hay trở thành một nơi mà mỗi người tìm cách áp đặt cho người khác sự công nhận chỉ những lợi ích cá nhân của mình.
Tiếp đến, đó là dấn thân phục vụ chúng. Bằng cách tham gia vào một đô thị, một phòng ban, một nghiệp đoàn hay một hiệp hội, mỗi người đều có thể, tùy theo khả năng, thời gian và sở thích của mình, tham gia và hành động nhằm phục vụ công ích. Cũng chính trong các cơ quan trung gian mà các quan điểm của các công dân được cấu trúc.
Sau cùng, đó là bảo vệ và chăm lo cho sức khỏe của các thể chế. Đó là bảo vệ sự tham gia thông qua các quy tắc và mục tiêu. Điều đó đặt ra vấn đề về quy mô của các tổ chức và sự gia tăng sức nặng của các quy định vốn hạn chế sáng kiến của các nhóm đến nỗi chúng buộc họ phải khiếu nại lên cấp cao hơn và do đó tìm kiếm sự tuân thủ nhiều hơn là khả năng thực hiện các sáng kiến.
- Giáo dục trách nhiệm và phát triển tình yêu đối với công ích
Các thể chế không thể hoạt động mà không có những người thúc đẩy chúng. Các thể chế, bất kể chất lượng của chúng, không thể tồn tại nếu không có những người được thúc đẩy bởi một ý thức sâu xa về trách nhiệm và ý thức về công ích. Một cách hỗ tương, các thể chế chất lượng đào tạo những người có trách nhiệm, những người mà tiếp đến làm cho chúng sống và tiến bộ.
Giáo dục ý thức trách nhiệm và tình yêu đối với công ích bắt đầu từ các gia đình, vốn “tạo nên nơi chốn đầu tiên trong đó các giá trị về tình yêu và tình huynh đệ, về sự chung sống và chia sẻ, về sự quan tâm và chăm sóc tha nhân được sống và truyền lại”[38]. Các trường học, hiệp hội và doanh nghiệp đều có thể là nơi học tập. Việc giáo dục này là cấp bách. Quả thế, xã hội cảu chúng ta thúc đẩy chủ nghĩa cá nhân. Vấn đề này xứng đáng có một bài viết riêng. Không khai triển mọi thứ, chúng ta chỉ cần lưu ý rằng tiến bộ kỹ thuật thúc đẩy ảo tưởng rằng mỗi người đếu có thể tự xoay xở một mình.
- Kết luận
Nguyên tắc tham gia kêu gọi những gì tốt nhất của con người, sự tự do và tính sáng tạo của họ. Nó sẽ luôn là một hành động cá nhân mà chúng ta thực hiện với và cho người khác. “Phẩm giá của nhân vị đòi hỏi mỗi người phải hành động theo một quyết tâm có ý thức và tự do. Trong đời sống xã hội, đặc biệt chính từ các quyết định cá nhân mà chúng ta phải mong đợi sự tôn trọng các quyền lợi, việc thực hiện các bổn phẩn, sự cộng tác vào nhiều hoạt động. Cá nhân sẽ phải trưởng thành ở đó bằng xác tín cá nhân; bằng sáng kiến của mình, bằng ý thức của mình về các trách nhiệm chứ không phải dưới tác động của những cưỡng bức hay áp lực bên ngoài”[39].
Tý Linh
(theo: https://www.doctrine-sociale-catholique.fr/les-principes/216-participation)
Nguồn: xuanbichvietnam.net (22.07.2023)
[1] Tóm lược HTXH của Giáo hội §189.
[2] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo 1914, 1915, 1916.
[3] Hiến chế Gaudium et spes, GS 24.3
[4] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo – 1913.
[5] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo – 1913.
[6] Stk 2, 15.
[7] Xh 24, 7.
[8] 1Sm 8, 11-18.
[9] 1Sm 8, 22.
[10] Mt 20
[11] Mt 19, 14.
[12] Mt 25, 40.
[13] Lc 14, 13.
[14] Lc 9, 13. Chúa Giêsu sẽ sai các môn đệ đi truyền giáo từng hai người một (Lc 10, 1) và trong những lời cuối cùng của mình, Ngài sẽ yêu cầu các ông làm chứng cho Ngài (Lc 24, 48).
[15] 1Cr 12, 25
[16] Cf. Leo Moulin, “le pouvoir dans les ordres religieux” dans “Pouvoir” n°17, 1981.
[17] Leo Moulin khai triển ý tưởng rằng các dòng đan tu cũng như Hy Lạp Cổ đại là mô hình của nền dân chủ phương Tây. “Les origines religieuses des technique électorales et délibératives moderne”, Politix. Revue des sciences sociales du politique Année 1998 43 pp. 117-162
[18] Khi nói điều đó, thánh Catarina Siêna đặt vấn đề về mục đích phổ quát của của cải và việc sử dụng quyền tư hữu.
[19] S. Catherine de Sienne, Dial. 1, 6
[28] Christifideles Laici §5
[29] Christifideles Laici §2 dựa vào Mt 20, 6-7. Xem thêm trong Laudato Si: “Đặc biệt, các Kitô hữu biết rằng bổn phận của họ ở trong công trình tạo dựng và bổn phận của họ đối với thiên nhiên và Đấng Tạo Hòa là một phần không thể thiếu trong đức tin của họ”.
[31] Simone Weill, L’enracinement, 1943. Trong phần dẫn nhập, bà nhắc nhở chúng ta rằng các quyền lợi không tự tồn tại. “Việc thực hiện hiệu quả một quyền lợi không đến từ người sở hữu nó nhưng từ những người khác, những người nhận ra mình có nghĩa vụ về điều gì đó đối với người ấy. Vì thế, nghĩa vụ có hiệu lực ngay khi nó được nhìn nhận”. Như thế, “khái niệm nghĩa vụ trỗi vượt hơn khái niệm quyền lợi vốn phụ thuộc và liên quan đến nó. Một quyền lợi không có hiệu lực nơi chính nó, nhưng chỉ thông qua nghĩa vụ tương ứng với nó”.
[33] Hannah Arendt, les origines du totalitarisme, 1951
[35] Được thành lập vào năm 1957 bởi Cha Joseph Wresinski, nó đặc biệt dựa vào di sản giáo dục phổ thông do Paulo Freire phát triển.
[36] Cf. Diễn văn của Đức Piô XII nhân kỷ niệm 50 năm Rerum Novarum: “Sự thiện và sự dữ của các linh hồn tùy thuộc và được xâm nhập từ hình thức được trao cho xã hội, hòa hợp hay không với các lề luật của Thiên Chúa”.
[37] Caritas In Veritate, CV 7. Do đó, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ nói về nền sinh thái xã hội. “Nền sinh thái xã hội nhất thiết mang tính thể chế và dần dần đạt đến các chiều kích khác nhau vốn đi từ nhóm xã hội cơ bản là gia đình, ngang qua cộng đồng địa phương và Quốc gia, cho đến đời sống quốc tế. Trong mỗi cấp độ xã hội và giữa chúng, được phát triển các thể chế vốn điều chỉnh các mối tương quan nhân loại. Tất cả những gì gây hại cho chúng đều có tác hại, chẳng hạn như mất tự do, bất công và bạo lực”.(Laudato Si’, § 139)
[39] Gioan XXIII, Pacem in terris, PT 34