2023
THÁNH KINH VÀ THÁNH NHẠC
THÁNH KINH VÀ THÁNH NHẠC
Trong Hiến chế Dei Verbum – Lời Thiên Chúa, Công đồng Vatican II đã viết: “Giáo hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng vụ thánh, Giáo hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Kitô để trao ban cho các tín hữu. Thánh Kinh truyền đạt Lời của chính Thiên Chúa cách bất di bất dịch. Vì vậy, toàn thể việc rao giảng trong Giáo hội cũng như chính nếp sống đạo của người Kitô hữu phải được Thánh Kinh nuôi dưỡng và hướng dẫn. Quả thật, trong các Sách Thánh, Cha trên trời âu yếm đến gặp gỡ và trò chuyện với con cái của Ngài, vì trong Lời Thiên Chúa có uy lực và quyền năng lớn lao để mang lại sự nâng đỡ và sức sống cho Giáo Hội, đồng thời đem đến cho đoàn con của Giáo Hội sức mạnh của đức tin, lương thực của linh hồn, nguồn mạch tinh tuyền và trường tồn của đời sống thiêng liêng.”[1]
- TẦM QUAN TRỌNG CỦA THÁNH KINH
- Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa
Thiên Chúa là tác giả của Thánh Kinh nên những gì được ghi chép trong Thánh Kinh đều là Lời Thiên Chúa. Qua Thánh Kinh, Thiên Chúa mạc khải về chính mình để con người nhận ra, hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa hơn. Nếu Thiên Chúa không mở lời để nói cho con người về chính Ngài, thì con người sẽ không bao giờ có diễm phúc được biết Thiên Chúa và yêu mến Ngài. “Do lòng nhân lành và khôn ngoan, Thiên Chúa đã muốn mạc khải chính mình và tỏ cho biết thiên ý nhiệm mầu (x. Ep 1,9); nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần vào bản tính Thiên Chúa (x. Ep 2,18; 2 Pr 1,4). Qua việc mạc khải này, Thiên Chúa vô hình (x. Cl 1,15; 1 Tm 1,17), trong tình yêu thương chan hòa, đã ngỏ lời với loài người như với bạn hữu (x. Xh 33,11; Ga 15,14-15) và đến sống với họ (x. Br 3,38) để mời gọi và chấp nhận cho họ đi vào cuộc sống của chính Ngài.”[2]
Tất cả mọi lời trong Thánh Kinh đều nhằm mục đích diễn tả về Thiên Chúa, để con người không chỉ nhận ra sự hiện diện của Ngài, mà còn khám phá thấy những nét tuyệt đẹp của Thiên Chúa trong các thuộc tính của Ngài, nhất là tình yêu. Con người sẽ không thể hiểu được tình yêu là gì nếu không nhận biết mình được yêu thương bởi một Thiên Chúa Tình Yêu.
Lời Thiên Chúa được chính Chúa Thánh Thần linh hứng và dùng một số người viết lại Lời Thiên Chúa bằng ngôn ngữ của con người nên Thánh Kinh không sai lầm. Từng lời trong Thánh Kinh đều khởi đi và thể hiện ý định cứu độ của Thiên Chúa dành cho con người. Những nhân vật, những câu chuyện, những biến cố… mà Thánh Kinh ghi lại đều truyền tải một sứ điệp nào đó mà Thiên Chúa muốn nói với con người. Do đó, những lời trong Thánh Kinh không có câu nào là dư thừa, vô ích nhưng từng câu Thánh Kinh là lời nói tình yêu mà Thiên Chúa ngỏ với con người.
- Thánh Kinh là Lời Hằng Sống
Thánh Kinh tuy chứa đựng những cuốn sách đã được viết ra cách đây nhiều trăm năm nhưng không bao giờ cũ hay lỗi thời. Bởi vì tác giả của Thánh Kinh là Thiên Chúa Hằng Sống. “Ngài đã dùng lời nói và hành động để mạc khải cho dân riêng của Ngài biết rằng chính Ngài là Thiên Chúa duy nhất, chân thật và hằng sống. Vì vậy, các sách đã được Thiên Chúa linh hứng vẫn giữ một giá trị trường cửu.”[3] Cho nên Lời Chúa bao giờ cũng hợp thời và thích hợp cho mọi người của mỗi thời đại khác nhau. Cũng một câu Lời Chúa đó nhưng mỗi người trong hoàn cảnh cụ thể của mình sẽ được Thiên Chúa đánh động khác nhau. Do đó, dù ở độ tuổi nào, hay đang sống trong hoàn cảnh nào, Lời Chúa vẫn sống động. Những ai tiếp cận với Lời Chúa đều cảm nhận như chính Thiên Chúa đang trực tiếp nói với mình trong giây phút hiện tại.
Vì thế, trong Thánh Kinh không có sách cũ hay mới. Sự phân biệt các sách Cựu ước hay Tân ước chỉ nhằm nói đến giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với dân Người và Đức Giêsu Kitô. Giao ước cũ đã thất bại vì dân Chúa đã không trung thành, còn giao ước mới đã hoàn thành viên mãn khi Đức Giêsu Kitô vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá theo thánh ý của Chúa Cha. “Thiên Chúa, Đấng linh hứng và là tác giả của cả hai bộ sách Giao ước, đã khôn ngoan xếp đặt cho Tân ước được tiềm tàng trong Cựu ước, và Cựu ước được tỏ hiện trong Tân ước.”[4] Do đó, toàn bộ Thánh Kinh là một sự thống nhất xuyên suốt. Từ dòng đầu tiên của sách Sáng Thế đến dòng cuối cùng của sách Khải Huyền đều chứa đựng Lời Hằng Sống. “Kinh Thánh là sách chứa đựng những lời ban sự sống đời đời; vậy Kinh Thánh được viết ra không chỉ để chúng ta tin, nhưng còn để chúng ta có sự sống đời đời.”[5]
- Thánh Kinh là Lời Cứu Độ
Trên trần gian này không có cuốn sách nào, dù là best seller cũng không dám khẳng định nó có khả năng đem ơn cứu độ. Chỉ duy nhất Thánh Kinh là cuốn sách chứa đựng Lời Cứu Độ. Từng trang Thánh Kinh đều trình bày một ý định xuyên suốt của Thiên Chúa về chương trình cứu độ dành cho con người. Chúa Giêsu chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa. “Thật vậy, Chúa Cha đã sai Con của Ngài là Ngôi Lời vĩnh cửu, Đấng soi sáng mọi người, đến sống giữa loài người và nói cho họ biết những điều kín nhiệm nơi Thiên Chúa.”[6] Sự hiện diện của Chúa Giêsu đã làm cho Lời Thiên Chúa trở nên sống động, hiện thực và đem lại ơn cứu độ. Chính Chúa Giêsu đã nói Lời Thiên Chúa và rao giảng Lời Chúa để những ai nghe và thực hành sẽ được hưởng ơn cứu độ. “Ngôi Lời đã mạc khải chính Thiên Chúa cho chúng ta trong tương quan trao đổi tình yêu giữa các Ngôi Vị Thiên Chúa, và mời gọi chúng ta dự phần vào tương quan tình yêu đó. Vì vậy, một khi được tạo dựng nên theo hình ảnh giống với Thiên Chúa tình yêu, chúng ta chỉ có thể hiểu được chính mình khi biết đón nhận Ngôi Lời và tác động của Chúa Thánh Thần. Chính nhờ ánh sáng của Mạc Khải do Ngôi Lời Thiên Chúa thực hiện mà bí ẩn trong thân phận con người được sáng tỏ trọn vẹn.”[7] Do đó, Thánh Kinh không phải là một cuốn sách tiểu thuyết, hay lịch sử nhưng từng trang sách của Thánh Kinh đều có sức mạnh đem đến ơn cứu độ. Những ai đón nhận, lắng nghe và thực hành sẽ được chính Lời Thiên Chúa giải thoát. “Thiên Chúa đã muốn dùng mạc khải thần linh để biểu lộ và thông ban chính mình cũng như ý định muôn đời của Ngài liên quan đến việc cứu rỗi nhân loại.”[8]
- THÁNH KINH LÀ NGUỒN SÁNG TÁC VÔ TẬN CHO THÁNH NHẠC
- Để Thánh Kinh là nguồn sáng tác cần tìm hiểu Lời Chúa
Khi muốn sáng tác một bài thánh ca, chúng ta thường đi tìm một ý tưởng hay được đánh động bởi một biến cố nào đó. Như thế, việc sáng tác sẽ dễ bị lệ thuộc và giới hạn. Vậy tại sao chúng ta không đến với Thánh Kinh để tìm hiểu Lời Chúa mà sáng tác? “Lời Thiên Chúa là ánh sáng thật mà con người cần đến.”[9] Một người viết thánh ca mà không hiểu biết về Lời Chúa thì dễ bị nghèo nàn trong ý tưởng. Do đó, muốn có nhiều tác phẩm thánh ca ra đời, người viết cần dành thời gian để tìm hiểu, học hỏi Thánh Kinh. Chính Chúa không chỉ là nguồn sáng tác vô tận mà còn là Đấng gợi lên cho chúng ta điều mà Ngài muốn chúng ta viết. Nếu chúng ta bị bí đề tài khi viết thánh ca thì chúng ta cần xem lại việc chúng ta dành bao nhiêu thời gian để tìm hiểu và học hỏi Lời Chúa. Bản thân mỗi người chúng ta tự hỏi xem tôi đã biết về Thánh Kinh bao nhiêu.
Qua việc tìm hiểu Lời Chúa, “chúng ta hiểu được chính mình và tìm được câu trả lời cho các vấn nạn sâu xa nhất vẫn ở trong trái tim chúng ta. Bởi vì Lời Chúa không hề đối nghịch với chúng ta, không bóp nghẹt các khát vọng chân chính của chúng ta, trái lại, soi sáng, thanh tẩy và đưa các khát vọng đó đến chỗ được hoàn tất. Đối với thời đại ta, thật quan trọng việc khám phá ra rằng duy một mình Thiên Chúa mới đáp ứng được cơn khát đang ở trong tim mỗi người!”[10]
- Để Thánh Kinh là nguồn sáng tác cần yêu mến Lời Chúa
Chúng ta sẽ không thể đọc, học và ghi nhớ Lời Chúa nếu chúng ta không yêu mến. Thật ra, việc đọc hay tìm hiểu Thánh Kinh không phải là tìm hiểu những lời viết trong đó, nhưng là tìm hiểu về Đấng mà những lời đó miêu tả. Để rồi từ đó, chúng ta hiểu và yêu mến Đấng đó mỗi ngày một hơn. “Lời Chúa đưa mỗi người chúng ta đi vào một cuộc đối thoại với Đức Chúa: Vị Thiên Chúa đang nói dạy chúng ta biết cách thưa chuyện với Ngài. toàn thể cuộc sống con người trở thành một cuộc đối thoại với Thiên Chúa, Đấng đang nói và đang nghe, đang mời gọi và hướng dẫn đời ta.”[11] Như thế, khi chúng ta nói yêu mến Lời Chúa không phải là yêu lời mà là yêu Chúa qua lời của Ngài. Cho nên chúng ta chỉ có thể đến với Thánh Kinh khi chúng ta có lòng yêu mến Chúa. Người viết thánh ca không thể đem đến một tác phẩm đi vào lòng người nếu không được lòng yêu mến Chúa thúc đẩy. Một bài thánh ca sẽ khó lòng chạm vào trái tim người nghe nếu nó không truyền tải một cảm nghiệm của người viết về lòng yêu mến Chúa.
- Để Thánh Kinh là nguồn sáng tác cần thực hành Lời Chúa
Lời Chúa không chỉ được đọc, hiểu mà còn phải sống. “Ai đặt nền tảng trên Lời của Ngài thì thực sự xây dựng đời mình một cách chắc chắn và bền vững.”[12] Chính khi chúng ta thực hành Lời Chúa, chúng ta sẽ có cảm nghiệm sâu hơn về Chúa. Từ đó, bài thánh ca chúng ta viết ra không dựa trên lý thuyết nhưng nó được viết ra từ kinh nghiệm sống thiêng liêng mà chúng ta có. Trong Thánh Kinh, Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta về Ngài và dạy chúng ta biết bao nhiêu điều. Mỗi một câu truyện trong Thánh Kinh đều là những bài học mà Thiên Chúa muốn nói với chúng ta. Cho nên một bài thánh ca sẽ được viết sâu sắc hơn khi nó được người viết sống điều họ viết trước. “Lời Thiên Chúa có khả năng đáp lại các vấn đề mà con người phải đương đầu trong đời sống hằng ngày. Do đó, chúng ta cần hết sức cố gắng để Lời Thiên Chúa xuất hiện ra như một sự mở ra với các vấn đề của mình, một đáp trả cho các câu hỏi của mình, một sự nới rộng các giá trị và đồng thời một sự thoả mãn mang lại cho các khát vọng của mình.”[13]
III. THÁNH NHẠC LÀM SỐNG ĐỘNG THÁNH KINH
Trong Tông huấn Verbum Domini – Lời Chúa, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã viết: “Trong khung cảnh đề cao Lời Thiên Chúa trong cử hành phụng vụ, cũng phải quan tâm đến bài ca dành cho những lúc được tiên liệu theo từng nghi thức, dành ưu tiên cho các bài ca rõ ràng rút cảm hứng từ Kinh Thánh và diễn tả vẻ đẹp của Lời Chúa, bằng sự hoà hợp giữa nhạc và lời. Theo chiều hướng này, nên đề cao các bài ca mà Truyền thống Giáo Hội đã để lại và là những bài tôn trọng tiêu chuẩn này.”[14]
- Thánh Kinh đi vào lòng người nhờ Thánh Nhạc
Một bộ Thánh Kinh gồm 73 cuốn sẽ làm cho người đọc cảm thấy ngao ngán. Trong Thánh Kinh chứa đựng biết bao nhiêu câu truyện, biến cố, lời dạy dễ làm cho người đọc khó nhớ. Nhưng nếu các câu truyện và những lời Chúa nói trong Thánh Kinh được sáng tác thành những bài thánh ca thì sẽ làm cho người nghe dễ đón nhận Lời Chúa hơn. Chính giai điệu của bài hát sẽ làm cho người nghe nhớ được nội dung Lời Chúa mà bài hát muốn diễn tả.
- Thánh Kinh trở nên gần gũi nhờ Thánh Nhạc
Khi nghe nói về Thánh Kinh, chúng ta thường nghĩ nó là một cuốn sách khô khan, khó hiểu và dành riêng cho một thành phần nào mà thôi. “Lối vào Thánh Kinh cần phải được mở rộng cho các Kitô hữu.”[15] Quả thật, Thánh Kinh là môn học khó và những điều viết trong đó cũng khó hiểu vì nó là Lời của Thiên Chúa. Qua tìm hiểu Thánh Kinh, chúng ta chỉ có thể hiểu một phần nào về Thiên Chúa thôi. Do đó, khi nói về Thánh Kinh lập tức làm cho chúng ta cảm thấy xa cách, khó tiếp cận. Tuy nhiên, nếu các lời Thánh Kinh hay những nội dung của Thánh Kinh được Thánh Nhạc chuyển tải thì nó sẽ trở nên gần gũi và người nghe dễ tiếp thu. Điều này đòi hỏi người viết thánh ca hiểu được điều mà Thánh Kinh muốn nói rồi chuyển những ý tưởng đó bằng những nốt nhạc.
- Thánh Kinh được lan tỏa nhờ Thánh Nhạc
Thánh nhạc trở nên phương thế để loan báo Lời Chúa. Qua các bài hát thánh ca, Lời Chúa đi đến với từng người, từng nhà và khắp hang cùng ngõ hẻm. Người ta có thể ngại khi cầm cả một cuốn Thánh Kinh lên đọc, nhưng người ta sẽ dễ dàng mở một bài hát thánh ca lên nghe trong mọi lúc. Cho nên người viết thánh ca sẽ thi hành sứ vụ ngôn sứ qua tác phẩm của mình. Qua từng bài thánh ca, chúng ta giới thiệu Chúa cho mọi người. Chúng ta đem Chúa đến cho từng nhà. Như thế, một tác phẩm thánh ca không nhằm làm vinh danh tác giả nhưng làm vinh danh Thiên Chúa. Làm sao để mỗi lần người ta nghe hay hát bài thánh ca, người ta biết Chúa hơn và yêu mến Ngài hơn. Đó là sứ mạng của một bài thánh ca.
Tóm lại, “Thánh Kinh là bản văn được Thiên Chúa (tác giả chính) linh ứng cho các tác giả nhân loại (x. 2 Tm 3,16), ghi lại trung thực những mạc khải về Thiên Chúa và ý định của Ngài cho con người (x. Ep 1,9).”[16] Thánh Kinh là nền tảng của Thánh Nhạc. Nếu Thánh Kinh là nguồn mạch để làm cho Thánh Nhạc sống, thì Thánh Nhạc cũng góp phần làm cho Thánh Kinh trở nên sống động. Nếu Thánh Kinh trình bày về Thiên Chúa bằng chữ viết, thì “Thánh Nhạc làm vinh danh Thiên Chúa và thánh hóa các tín hữu”[17] bằng giai điệu và lời ca. Cả Thánh Kinh và Thánh Nhạc đều có chung một mục đích là giới thiệu Chúa cho muôn người và đem mọi người về với Thiên Chúa.
Lm. Laurensô Hoàng Bá Quốc Huy
[1] Công đồng Vatican II, Hiến chế Dei Verbum – Lời Thiên Chúa, 18.11.1965, bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin – HĐGMVN (Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2016), số 21.
[2] Công đồng Vatican II, Hiến chế Dei Verbum – Lời Thiên Chúa, số 2.
[3] Công đồng Vatican II, Hiến chế Dei Verbum – Lời Thiên Chúa, số 14.
[4] Công đồng Vatican II, Hiến chế Dei Verbum – Lời Thiên Chúa, số 16.
[5] Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Tông huấn Verbum Domini – Lời Chúa, 30.9.2010, bản dịch của Ủy Ban Kinh Thánh – HĐGMVN (Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2011), số 23.
[6] Công đồng Vatican II, Hiến chế Dei Verbum – Lời Thiên Chúa, số 4.
[7] Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Tông huấn Verbum Domini – Lời Chúa, số 7.
[8] Công đồng Vatican II, Hiến chế Dei Verbum – Lời Thiên Chúa, số 6.
[9] Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Tông huấn Verbum Domini – Lời Chúa, số 12.
[10] Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Tông huấn Verbum Domini – Lời Chúa, số 23.
[11] Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Tông huấn Verbum Domini – Lời Chúa, số 24.
[12] Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Tông huấn Verbum Domini – Lời Chúa, số 10.
[13] Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Tông huấn Verbum Domini – Lời Chúa, số 23.
[14] Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Tông huấn Verbum Domini – Lời Chúa, số 71.
[15] Công đồng Vatican II, Hiến chế Dei Verbum – Lời Thiên Chúa, số 22.
[16] Hội Đồng Giám Mục Việt Nam – Ủy ban Giáo lý Đức tin – Ban từ vựng Công giáo, Từ điển Công Giáo (Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2019), 799.
[17] Ban từ vựng Công giáo, Từ điển Công Giáo, 802.
2023
Thông báo về “Thỏa thuận về Quy chế của Đại diện Thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam”
Thông báo về “Thỏa thuận về Quy chế của Đại diện Thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam”
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
_______
Ngày 28 tháng 7 năm 2023
THÔNG BÁO VỀ
“THỎA THUẬN VỀ QUY CHẾ CỦA ĐẠI DIỆN THƯỜNG TRÚ
CỦA TÒA THÁNH TẠI VIỆT NAM”
Kính thưa Quý Đức Hồng Y, Quý Đức Cha, và mọi thành phần trong cộng đồng Dân Chúa Việt Nam,
Tối ngày 27 tháng 7 năm 2023, Phòng Báo chí Tòa Thánh công bố:
Nhân chuyến thăm Vatican của ông Võ Văn Thưởng, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, vào ngày 27 tháng 7 năm 2023, dựa trên những tiến bộ đạt được trong các phiên họp của Nhóm làm việc chung giữa Việt Nam và Tòa Thánh, đặc biệt là phiên họp thứ 10 vào ngày 31 tháng 3 năm 2023 tại Vatican, và với mong muốn tiếp tục thúc đẩy các quan hệ song phương, hai bên chính thức thông báo rằng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Tòa thánh đã ký kết “Thỏa thuận về Quy chế của Đại diện Thường trú của Tòa Thánh và về Văn phòng Đại diện Thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam”.
Đây là kết quả từ quá trình trao đổi của Nhóm công tác hỗn hợp Việt Nam – Vatican suốt 14 năm qua, từ năm 2009 đến nay, dựa trên những tiến triển trong các quan hệ giữa Việt Nam và Tòa Thánh cũng như những đóng góp tích cực của cộng đồng Công giáo Việt Nam.
Chúng ta tạ ơn Chúa về thành quả tốt đẹp này. Sự hiện diện thường xuyên của Vị Đại diện Tòa Thánh sẽ giúp Dân Chúa tại Việt Nam cảm nhận sự hiệp thông với Đức Thánh Cha cách cụ thể hơn, để sống và làm chứng cho Tin Mừng giữa lòng dân tộc cách tích cực hơn.
Thành quả này là tiền đề cho mối quan hệ Việt Nam – Vatican để tiến lên cấp độ cao hơn trong tương lai, và một ngày gần đây chúng ta có thể đón Đức Giáo hoàng đến thăm quê hương và dân tộc Việt Nam yêu dấu.
(đã ấn ký)
+ Giuse Nguyễn Năng
Tổng Giám mục TGP Tp. Hồ Chí Minh
Chủ tịch HĐGM VN
2023
Việt Nam và Tòa Thánh ký kết Thỏa thuận về Quy chế của Đại diện Thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam
Việt Nam và Tòa Thánh ký kết Thỏa thuận về Quy chế của Đại diện Thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam
Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng (Vatican Media)
VIỆT NAM VÀ TÒA THÁNH KÝ KẾT THỎA THUẬN VỀ QUY CHẾ CỦA ĐẠI DIỆN THƯỜNG TRÚ CỦA TÒA THÁNH TẠI VIỆT NAM
Thông cáo chung giữa Việt Nam và Tòa Thánh, được công bố chiều ngày 27/7/2023, cho biết hai bên đã ký kết “Thỏa thuận về Quy chế của Đại diện Thường trú của Tòa Thánh và về Văn phòng Đại diện Thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam”. Trước đó, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp ông Võ Văn Thưởng, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Đức Thánh Cha đã tiếp Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng
Vào lúc 3 giờ chiều ngày 27/7/2023, Đức Thánh Cha đã tiếp Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tại Thư viện Dinh Tông tòa. Sau cuộc gặp gỡ kéo dài khoảng 20 phút, Đức Thánh Cha đã tặng mỗi thành viên trong phái đoàn Việt Nam một huy chương của Giáo hoàng.
Ngài cũng tặng Chủ tịch nước Việt Nam một bức phù điêu bằng đồng khắc họa về chủ đề thương xót, đón nhận và tình huynh đệ, là lời kêu gọi không ngừng của ngài trong những năm qua. Quà tặng của Đức Thánh Cha còn có Sứ điệp Ngày Thế giới Hòa bình năm 2023, Tài liệu về tình Huynh đệ Nhân loại, cuốn sách về buổi cầu nguyện cho đại dịch chấm dứt vào tối ngày 27 tháng 3 năm 2020 và cuốn sách hình ảnh về Căn hộ Giáo hoàng.
Về phần mình, Chủ tịch nước Việt Nam đã tặng Đức Thánh Cha một bình gốm có hình đền thờ Thánh Phêrô, được làm tại Việt Nam.
Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp phái đoàn Chủ tịch nước Việt Nam
Sau đó, Chủ tịch nước Việt Nam và phái đoàn đã có cuộc gặp gỡ với Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh Pietro Parolin.
Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh và Chủ tịch Võ Văn Thưởng
Thông cáo chung về việc ký kết Thỏa thuận về quy chế của Đại diện Thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam
Thông cáo chung về việc ký kết Thỏa thuận về quy chế của Đại diện Thường trú của Tòa Thánh và Văn phòng Đại diện Thường trú của Tòa thánh tại Việt Nam cho biết:
“Nhân chuyến thăm Vatican của ông Võ Văn Thưởng, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, vào ngày 27 tháng 7 năm 2023, dựa trên những tiến bộ đạt được trong các Phiên họp của Nhóm làm việc chung giữa Việt Nam và Tòa Thánh, đặc biệt là phiên họp thứ 10 vào ngày 31 tháng 3 năm 2023 tại Vatican, và với mong muốn tiếp tục thúc đẩy các quan hệ song phương, hai bên chính thức thông báo rằng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Tòa thánh đã ký kết “Thỏa thuận về Quy chế của Đại diện Thường trú của Tòa Thánh và về Văn phòng Đại diện Thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam”.
Thông cáo cho biết thêm, “Trong cuộc trò chuyện thân mật giữa Chủ tịch Võ Văn Thưởng với Đức Giáo hoàng Phanxicô và sau đó, với Đức Hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin, các bên bày tỏ sự đánh giá cao về những tiến triển đáng kể trong các quan hệ giữa Việt Nam và Tòa Thánh cũng như những đóng góp tích cực của cộng đồng Công giáo Việt Nam cho đến nay.”
Cuối cùng, thông cáo cũng nói rằng “Hai bên bày tỏ tin tưởng rằng Đại diện Tòa Thánh sẽ hoàn thành vai trò và nhiệm vụ được trao trong Thỏa thuận, đồng thời sẽ hỗ trợ cộng đồng Công giáo Việt Nam thực hiện nhiệm vụ của họ trong tinh thần tôn trọng luật pháp và luôn được Huấn quyền của Giáo hội hướng dẫn, để thực thi ơn gọi ‘đồng hành cùng dân tộc’ và là ‘người Công giáo tốt, người công dân tốt’, góp phần xây dựng đất nước. Đồng thời, Đại diện Tòa Thánh sẽ là cầu nối để thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và Tòa Thánh.”
Phái đoàn Việt Nam gặp Đức Hồng y Pietro Parolin
Tiến trình thảo luận giữa Việt Nam và Tòa Thánh về một vị Đại diện Thường trực của Tòa Thánh tại Việt Nam đã kéo dài từ nhiều năm. Cho đến nay, Đại diện không Thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam là Đức Tổng Giám mục Marek Zalewski, 60 tuổi, người Ba Lan; ngài hiện là Sứ thần Tòa Thánh tại Singapore. (CSR_2879_2023)
Nguồn: vaticannews.va/vi
2023
LÒNG YÊU MẾN CHÚA VÀ MẸ CỦA THÁNH ANPHONGSÔ
Nói về cuộc đời của thánh Anphongsô là nói về cuộc đời của một con người ngoại hạng, một người vĩ đại của thế kỷ Ánh sáng với những tác phẩm để đời mà ảnh hưởng còn kéo dài cho đến hôm nay như bộ Thần Học Luân Lý, Vinh Quang Mẹ Maria, Nữ Tu Thánh Thiện, Chân Lý Đời Đời…một cuộc đời hoạt động không mỏi mệt vì các linh hồn, một trái tim đầy lòng thương xót đối với những con người bị bỏ rơi bên lề cuộc sống tâm linh, một đời sống bôn ba xuôi ngược để xây dựng một hội dòng lo đến phần rỗi linh hồn của những người nghèo khổ để rồi cuối cùng lại là người chết bên ngoài hội dòng, một người dám thề hứa với Chúa không bỏ phí một phút nào trong đời mình, một vị thánh của cầu nguyện với câu nói thời danh “ai cầu nguyện chắc chắn sẽ được cứu rỗi, ai không cầu nguyện sẽ phải hư mất”… Làm thế nào mà Anphongsô có thể làm được tất cả những điều cao cả ấy ? Đó là vì lòng yêu mến Chuá Giêsu, vì khi yêu người ta có thể làm được tất cả.
Thánh Anphongsô Maria Liguori sinh ngày 27 tháng 9 năm 1696 tại Marinella gần Naples, nước Ý. Ngài là con trưởng trong một gia đình quý tộc có bảy anh em. Ngài có đầu óc rất thông minh và có trái tim hết sức nhạy cảm. Cha Ngài làm việc trong triều đình, còn mẹ ngài là người có lòng nhân đức và bác ái. Anphongsô ngay từ thửa bé đã học rất giỏi và có đầu óc sáng suốt. Bên cạnh đó ngài cũng có một tấm lòng quảng đại đối với tất cả mọi người.
Ta thấy Thánh Anphongsô đã chứng tỏ ngài là một sinh viên ưu tú và xuất sắc. Ngài đã được ban giám khảo miễn trừ cho 3 tuổi, do đó vào năm 16 tuổi, Anphongsô đã lấy bằng tiến sĩ giáo luật và dân luật của Đại học Napôli. Sau một thời gian thì ngài lại bỏ nghề luật sư, và từ đó ngài đã dấn thân cho công cuộc bác ái. Kể từ đó ngài nhận ra được tiếng Chúa mời gọi ngài dấn thân trong cánh đồng phục vụ nước Chúa.
Năm 1726 ngài được thụ phong linh mục và ngài đã dồn mọi nỗ lực trong việc tổ chức tuần đại phúc ở các giáo xứ, cũng như nghe xưng tội và thành lập các đoàn thể Kitô giáo.
Vào tháng 11 năm 1732, ngài đã thành lập dòng Chúa Cứu Thế tại Scala. Đây là một hội dòng gồm các linh mục và tu sĩ sống chung với nhau, tận tụy thei gương Đức Kitô và hoạt động chính yếu là tổ chức tuần đại phúc cho nông dân ở thôn quê. Như một điềm báo cho điều sẽ xảy ra sau này, sau một thời gian hoạt động thì những người đồng hành với ngài từ lúc khởi đầu đã từ bỏ tu hội và chỉ còn lại có một thầy trợ sĩ. Nhưng sau bao nỗ lực, tu hội đã dần phát triển trở lại và được chập nhận vào 17 năm sau, dù rằng khó khăn vẫn chưa hết.
Sự canh tân mục vụ lớn lao của thánh Anphongsô là cách giảng thuyết và giải tội. ngài thay thế kiểu hùng biện khoa trương bằng sự giản dị dễ hiểu, và thay thế sự khắc nghiệt của thuyết Jansen bằng sự nhân từ.
“Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Thánh Anphongsô đã vạch ra cho nhân loại con đường theo Chúa : “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình,vác thập giá của mình mà theo Ta” (Lc 9, 23). Nên, thánh Anphongsô, hôm nay đã giơ tay cao, đã chỉ cho các sĩ tử Dòng Chúa Cứu Thế của Ngài nhớ về cội nguồn của mình. Cội nguồn mà chính thánh Anphonsô đã lập ra một Dòng mang tên Chúa Cứu Thế vào năm 1732 với bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu khó khăn, thử thách. Thánh Anphongsô đã viết nên trang sử oai hùng cho đời mình, cho Dòng mình sáng lập.
Với 16 tuổi đời, hai bằng tiến sĩ luật đạo và đời đã hé mở tương lai rạng rỡ cho cuộc đời thăng tiến của Anphongsô. Vinh quang vẫn là thách đố lớn nhất đối với gia đình của Anphongsô. Cha của Người không đồng ý cho Anphongsô tận hiến cuộc đời cho Chúa. Nhưng ý Chúa nhiệm mầu, một vụ kiện, đáng lẽ Anphongsô phải thắng, nhưng vẫn là đường lối quan phòng kỳ diệu của Chúa, thánh Anphongsô đã từ bỏ pháp đình, từ bỏ tất cả. Với sự nhất quyết theo chân Chúa, Anphongsô đã thắng cả sự ngăn cản của người cha và Người đã quyết định dứt khoát đi vào con đường hẹp.
Thánh Anphongsô, sau khi học xong triết và thần học,đã lãnh nhận sứ vụ linh mục vào ngày 21 tháng 12 năm 1726. Người đã chuyên cần giảng dậy và khuyên bảo mọi người thay đổi, tiến bước trên con đường nên thánh. Vì chính Người, sau một cuộc thua kiện đã thay đổi tất cả, đổi mới tất cả. Thánh Anphongsô đã đặt chiếc gươm, biểu tượng của dòng quí tộc dưới chân Ðức Mẹ. Thánh Anphongsô đã biến giây phút đó, giây phút hiện tại mà Người đặt thanh bảo kiếm dưới chân Ðức trinh nữ Maria làm giây phút hồng phúc và cứu độ. Cái giây phút mà trong cuộc hành trình chịu chết, Chúa đã nhìn Phêrô khiến Phêrô ăn năn và quay trở về với Chúa. Ðó là giây phút cứu độ của Phêrô. Còn đối với Anphongsô, giờ cứu độ của Người ở ngay dưới chân Ðức Mẹ.
Trong tác phẩm được rất nhiều người biết đến “ Vinh quang Mẹ Maria” ngài đã viết trong lời tựa: Mẹ biết rồi đó, sau Chúa Giêsu thì mẹ là người con đặt tất cả niềm cậy trông sẽ được phần rỗi đời đời. Như vậy có nghĩa là lòng yêu mến Chúa Giêsu được đặt ở vị trí hàng đầu trong lòng mến của ngài. Yêu mến Chúa Giêsu là điều ngài luôn bận tâm trong suốt cuộc đời để rồi ngài đã có thể nói lên xác quyết cách mạnh mẽ : tất cả những sự trọn lành của chúng ta chỉ hệ tại ở việc yêu mến Chúa với trót cả tâm hồn (Thực hành Yêu Mến Chúa Giêsu). Có nhiều người đã tưởng rằng sự trọn lành hệ tại việc sống khổ hạnh, việc đọc nhiều kinh, việc siêng năng lãnh các bí tích, việc làm phúc bố thí… song họ đã lầm. Thánh Anphongsô đã quả quyết như thế. Có lẽ đây là kinh nghiệm của chính ngài. Thời trẻ ngài đã hi sinh, hãm mình phạt xác cách nhặt nhiệm, có cả việc đánh tội rất dữ dội nhưng rồi ngài đã khám phá ra điều cốt yếu lại chính là là lòng yêu mến Chúa Giêsu chứ không phải việc làm nào khác.
Anphongsô đã đáp lại tình yêu Chúa bằng một tình yêu trao hiến được biểu tỏ trong mọi hành vi của cuộc đời, là hiến thân hoàn toàn cho Chúa để phục vụ các linh hồn, dành thời gian cho việc rao giảng tin Mừng, viết sách vở giúp các linh mục và hàng giáo sĩ, tu sĩ và bề trên, giáo dân nhất là tầng lớp những con người bình dân, nghèo khổ, ít học thiếu thốn sự hướng dẫn thiêng liêng. Ngài đã cảm và đã hiểu được tác động và ý nghĩa của lòng yêu mến và đã đáp trả bằng cách hiến trọn cho tình yêu, nhất là lòng yêu mến Chúa Giêsu.
Trong việc giảng dạy, thánh Anphongsô đã căn dặn các tu sĩ rằng: “Tôi xác tín và tôi vẫn luôn luôn xác tín một cách mạnh mẽ rằng phương cách rao giảng của chúng tôi có một hình thái rất đặc biệt. Sự gần gũi của chúng tôi đối với dân chúng, lối giảng dạy bình dân, sự hiểu biết thần học và những chân lý căn bản, cộng với lòng nhân ái của chúng tôi nơi tòa giải tội – tất cả những nét đặc thù này đã lôi kéo đông đảo dân chúng đến với chúng tôi, và chúng tôi luôn sẵn sàng đáp ứng một cách hiệu quả”.
Năm 1762, Đức giáo hoàng Clementô XIV đặt Ngài làm giám mục cai quản địa phận Agata. Ngài đã nỗ lực thăng tiến lòng đạo đức trong địa phận, khởi sự từ viêc canh tân hàng giáo sĩ. Năm 1775, Ngài được đức giáo hoàng Piô VI cho phép từ nhiệm để về sống trong dòng tại Nocera.
Những năm cuối đời, thánh Alphongsô đã trải qua rất nhiều đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần. Dầu trong “đêm tối của linh hồn”, ngài vẫn không nao núng và luôn kiên trì cầu nguyện. Ngài nói: “Ai cầu nguyện sẽ được cứu thoát, ai không cầu nguyện sẽ tự luận phạt”. Cuối cùng ngài tìm được bình an và qua đời năm 1787. Ngài được phong thánh năm 1831 và được tuyên xưng tiến sĩ Hội Thánh năm 1871.
Nhìn vào lòng yêu mến Chúa Giêsu của thánh Anphongsô, chúng ta hiểu được sự kỳ diệu của tình yêu khiến cho ngài trở nên một vị thánh vĩ đại với lòng yêu mến các linh hồn cách mãnh liệt, làm nhiều việc cao cả sinh ích cho Giáo hội, giúp chúng ta có được những hướng dẫn thiêng liêng thật quí giá để tiến tới trên con đường yêu mến Chúa Giêsu .
Chúng ta cùng cầu nguyện với thánh Anphongsô trong những lời này:
Lạy Chúa Giêsu là niếm cậy trông của con, là tình yêu ngọt ngào duy nhất của hồn con! Con thật chẳng xứng đáng được Chúa an ủi. Xin Chúa dành ơn ấy cho những người vô tội vốn hằng yêu mến Ngài. Phần con là kẻ tội lỗi. Con chẳng đáng được như vậy. Con chẳng dám xin ơn ấy. trọn cả ước muốn của con là: xin Chúa hãy làm cho con yêu mến Chúa, xin Chúa hãy làm cho con biết thực thi thánh ý Chúa trong mọi cảnh huốn cuộc đời con, và hãy thực hiện nơi con điều đẹp lòng Chúa. Amen.