2023
Cử hành Thánh Thể: Bài 2 – Quy tụ
Cử hành Thánh Thể: Bài 2 – Quy tụ
– Ngày 5 tháng 8 năm 2023, Ủy ban Phụng tự Hội đồng Giám mục Việt Nam đã thông báo về chương trình Đào tạo phụng vụ cho Dân Chúa gồm: (1) Thực hành mục vụ và (2) Kiến thức phụng vụ. Để đào sâu hiểu biết về kiến thức phụng vụ, Ủy ban Phụng tự trân trọng giới thiệu loạt bài về cử hành Thánh Thể do linh mục Giuse Phạm Đình Ái, SSS tổng hợp và biên soạn.
BÀI 2: QUY TỤ
I/ VĂN KIỆN
“Vì chưng, dân này là dân Thiên Chúa, được cứu chuộc bằng giá máu Đức Kitô, được Chúa quy tụ, được lời Chúa nuôi dưỡng, là dân được kêu gọi để dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện của toàn thể gia đình nhân loại, là dân, trong Chúa Kitô, dâng lời tạ ơn về mầu nhiệm cứu độ, khi dâng hy lễ của Chúa Kitô; và, sau hết, là dân liên kết với nhau nên một, nhờ việc thông hiệp với Mình và Máu Đức Kitô. Dân này, mặc dầu từ nguồn gốc đã là thánh, nhưng nhờ tham dự ý thức, tích cực và hữu hiệu vào mầu nhiệm Thánh Thể, sẽ liên lỉ tấn tới trên con đường thánh thiện.” (Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma [QCSL], số 5)
II/ LỊCH SỬ
Trước thế kỷ IV, Thánh lễ không có nghi thức mở đầu (Apologia, số 67). Ngay cả phụng vụ thứ Sáu Tuần Thánh trước năm 1955, xét như một bằng chứng còn sót lại, Thánh lễ theo nghi lễ Rôma cũng chỉ bắt đầu với những Bài đọc Kinh Thánh.[1]
Trong khoảng thế kỷ IV –VIII, chung chung, Thánh lễ được mở đầu bằng buổi canh thức cầu nguyện với nhiều lời kinh khác nhau, sau đó, Đức Giám mục sẽ đọc lời nguyện kết thúc.
Từ thời Cựu Ước, dân Chúa đã khao khát nguyện xin được vào cư ngụ (quy tụ) trong nhà Chúa hay trên núi thánh của Chúa (Tv 15,1-2). Trong thời Tân Ước, Chúa Giêsu dạy dân chúng quy tụ lại mà cầu nguyện (Mt 18,20). Thế rồi, sau khi Chúa Giêsu phục sinh, những người theo Chúa cũng tề tựu ở một nơi nhân ngày lễ Ngũ tuần (Cv 2,1).
Đầu thế kỷ II, sách Didache khuyên các tín hữu “hãy quy tụ lại với nhau vào ngày của Chúa để bẻ bánh và dâng lời cảm tạ lên Thiên Chúa….”[2] Cũng trong thế kỷ này, thánh Justinô mô tả rằng “vào ngày, gọi là ngày mặt trời (Chúa nhật), tất cả những người ở thành thị cũng như ở thôn quê đều họp lại một nơi…đó là ngày Thiên Chúa biến đổi bóng tối thành ánh sáng…và là ngày Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ chúng ta sống lại từ cõi chết.” [3]
Giống như thời Hội Thánh sơ khai, trong Ngày của Chúa [hay Chúa nhật], chúng ta họp nhau lại / quy tụ lại trong thánh đường để lắng nghe Lời Chúa và tham dự Hy lễ Tạ ơn, để kính nhớ cuộc thương khó, tử nạn và phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu, đồng thời cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã dùng sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô mà tái sinh chúng ta trong niềm hy vọng sống động (x. 1P 1,3; PV 106).
III/ Ý NGHĨA
Mục đích của nghi thức đầu lễ là quy tụ cộng đoàn và hình thành cộng đoàn nên một dân của Chúa Kitô, được hiệp thông với nhau cũng như chuẩn bị lòng trí chúng ta lắng nghe Lời Chúa và lãnh nhận Thánh Thể cho xứng đáng.[4]
Có thể nói, Thánh lễ bắt đầu vào lúc chúng ta quyết định đến với nhau để cử hành tình yêu của Chúa. Chúng ta đến với nhau từ những phương trời khác nhau, từ những hoạt động và hoàn cảnh khác nhau… Tuy nhiên, chúng ta đến với nhau không phải như những cá thể biệt lập hay những như người quan sát câm lặng, chỉ có mặt để “xem lễ” (PV 48; Ep 2,19-22), mà là cuộc quy tụ thành:
– Một cộng đoàn phụng tự với tư cách là con cái Thiên Chúa, là dân thánh, dân riêng của Chúa (x. 1Pr 2,9-10), là những anh chị em tín hữu trong gia đình của Thiên Chúa, là những người được cứu chuộc, đến đây để cảm nếm trước bàn tiệc cánh chung (x. QCSL 24).[5]
– Một cộng đoàn đức tin bởi vì chúng ta tin rằng Thiên Chúa đã và đang hành động trong lịch sử nhân loại, cách đặc biệt hơn, Ngài vẫn can dự vào lịch sử chính cuộc đời của mỗi người. Đây là một cuộc tụ họp do Chúa Kitô và nhân danh Chúa Kitô, Đấng luôn luôn đi trước dẫn đầu Hội Thánh, Đấng vô hình nhưng thực sự làm chủ tế trong Thánh lễ, chính Người tập hợp dân tư tế của Người (x. 1 Pr 2,9); Đấng hướng dẫn chúng ta trên hành trình về đất hứa mới, nơi chúng ta được hiệp thông với Đức Kitô và với nhau.[6]
IV/ SUY NIỆM[7]
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tìm kiếm thánh nhan Ngài trong Thánh lễ, nhưng Ngài lại ẩn khuất dưới bức màn của các biểu tượng, ẩn dụ và thi ca. Chúng con đến nơi thánh này để tìm kiếm Chúa, nhưng thay vì tỏ mình ra cho chúng con, Ngài lại cho chúng con thấy một đoàn dân đang được quy tụ. Tại sao anh chị em chúng con lại ở đây? Bởi vì Chúa đã quy tụ chúng con. Chúa đã làm như thế, để rồi nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, hợp nhất với Chúa Thánh Thần, chúng con có thể tôn thờ Chúa Cha trong thần khí và sự thật.
Có những khuôn mặt thân quen, nhưng cũng nhiều người xa lạ. Chúng con tìm kiếm thánh nhan Chúa, nhưng Chúa lại tỏ cho chúng con thấy một đoàn dân quy tụ về đây từ muôn phương và Chúa muốn chúng con nhìn thấy Chúa ở trong họ!
Có lẽ câu ngạn ngữ này thật đúng ở đây “thân quá hóa nhờn” hay “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Làm thế nào chúng con có thể diện kiến dung nhan Chúa nơi những người chúng con quen biết? Chúa muốn chúng con cảm nhận sự hiện diện của Chúa ở nơi những người này sao? Chúng con phải nhìn ngắm Chúa đằng sau bức màn yếu đuối và ích kỷ của họ sao? Lạy Chúa, Chúa đang thử thách đức tin của chúng con khi Chúa chỉ dạy chúng con rằng họ là biểu tượng của Chúa; họ là anh chị em của Chúa?
Vâng, chúng con tin, bởi vì tất cả những người ở đây đều thuộc về thân mình mầu nhiệm của Chúa; bởi vì đây là mầu nhiệm của Hội thánh, một Hội thánh mà Chúa đã hòa giải rồi nhưng vẫn còn cần phải tiếp tục hòa giải nữa. Xin giúp chúng con chấp nhận chân lý này: Giáo hội thì thánh thiện nhưng vẫn gồm những tội nhân. Xin hãy giúp chúng con nhận ra thực tại của Hội thánh nơi những người đã được tắm gội trong ánh sáng ân sủng của Chúa nhưng có thể vẫn còn đang ngồi trong tăm tối và bóng tử thần.
Vì thân mình mầu nhiệm của Chúa mà chúng con gia nhập hàng tư tế hầu dâng lên Chúa Thánh lễ mỗi ngày. Những ai đang than khóc, xin Chúa an ủi họ và lau sạch những giọt lệ của họ bằng bàn tay cảm thương của Chúa. Những ai đang mừng vui hạnh phúc, xin Chúa gìn giữ họ an lành bằng sự chăm sóc đầy tình thương của Chúa, đừng để bất kỳ tai họa nào biến niềm vui của họ thành ưu sầu. Những ai đang phải xa nhà xa quê: lạy Chúa, xin hãy đồng hành với họ và trở thành nơi trú ngụ của họ, vì Chúa không xa lạ đối với những kẻ bị cô đơn hay bị xa lánh. Có những người đang vui thú cùng đi với gia đình và bạn bè: xin Chúa hãy dự phần vào niềm hạnh phúc của họ, như Chúa đã từng hoan hỷ bên những bạn hữu của Chúa ở Betania.
Lạy Chúa, xin cũng nhớ đến những ai không thể đến tham dự Thánh lễ cùng với chúng con. Chắc họ thật tình chú tâm đến tiếng gọi mời của Chúa, họ cũng muốn dành thời khắc nghỉ ngơi này với chúng con, nhưng họ vẫn phải lai lưng làm việc để kiếm kế sinh nhai, thậm chí cả trong ngày Chúa nhật. Nếu không làm việc hôm nay, có thể họ chẳng có gì để sinh sống. Xin dạy chúng con, trong khi hưởng thụ những giây phút cuối tuần, biết quan tâm đến những anh chị em có cùng một nhu cầu và quyền lợi như chúng con, nhưng lại không thể ngừng nghỉ lao tác để nghỉ ngơi vì đang lâm cảnh nghèo nàn và túng quẫn. Lạy Chúa, Chúa đã không lơ là với chim trên trời hay hoa huệ ngoài đồng: xin đừng để cho những anh chị em nghèo túng phải thất vọng về tình yêu quan phòng của Chúa và cũng đừng để họ không đón nhận được những hồng phúc của Chúa trên trần gian này. Amen.
Đọc thêm loạt bài tìm hiểu về cử hành Thánh Thể:
Bài 2 – Quy tụ
Bài 1 – Cấu trúc thánh lễ |
[1] X. Johannes H. Emminghaus, The Eucharist: Essence, Form, Celebration (Collegeville: The Liturgical Press, 1997), 104.
[2] Didache 14, trích lại trong Lucien Deiss, Sring-time of the Liturgy, dg. Matthew J. O’Connell (Collegeville: The Liturgical Press, 1979), 93-94.
[3] Justin Martyr, First Apology, 67, trích lại trong Lucien Deiss, Sring-time of the Liturgy, 93-94.
[4] X. James P. Moroney, The Mass Explained (New Jersey: Catholic Book Publishing Corp., 2008), 37.
[5] Dominic E. Serra, “Theology of the Latin Text and Rite”, trong A Commentary on the Order of Mass of the Roman Missal (Collegeville: The Liturgical Press, 2011), 126.
[6] Suy tư Thần học và Mục vụ Chuẩn bị cho Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 50 tại Dublin, Ireland (10 – 17/06/2012).
[7] Anscar J. Chupungco, OSB, Meditations on the Mass (Quezon: Claretian Publications and Flipside Publishing, 2013), dg. Giuse Phạm Đình Ái, SSS.
2023
Cử hành Thánh Thể: Bài 1 – Cấu trúc thánh lễ
I. CẤU TRÚC THÁNH LỄ THEO ĐỨC PIÔ V
A- Chuẩn bị
* Lời cầu nguyện dưới chân bàn thờ
– Dấu thánh giá
– Thánh vịnh 42
– Cáo mình
– Lời cầu xin
– Lời nguyện thanh tẩy – bước lên bàn thờ
– Hôn bàn thờ
– Lời cầu trên xương thánh
B- Phần I: Tiền Hiến Lễ
– Xông hương (lễ trọng)
– Ca nhập lễ
– Kinh Thương xót
– Kinh Vinh danh
– Lời tổng nguyện
– Thánh thư
– Đáp ca và Alleluia
– Lời nguyện thanh tẩy
– Tin Mừng
– Hôn Tin Mừng
– Kinh Tin kính
C- Phần II: Hiến Lễ
1) Chuẩn bị hiến lễ
– Lời nguyện trên bánh
– Pha rượu với nước
– Lời nguyện trên chén
– Lời nguyện thầm
– Lời cầu Chúa Thánh Thần
– Xông hương
– Rửa tay
– Lời nguyện Ba Ngôi
– Mời gọi
– Lời nguyện tiến lễ
– Lễ Quy cố định (Kinh Tạ Ơn I/Kinh Nguyện Thánh Thể I)
– Kinh Lạy Cha
– Lời chuyển cầu Đức Mẹ và các thánh
– Bẻ bánh + chúc bình an
– Kinh Chiên Thiên Chúa
– Lời cầu bình an (bỏ khi dâng lễ cầu hồn)
– Hai lời nguyện thầm – cúi sâu
– Lời nguyện thầm + linh mục đấm ngực + rước Mình Thánh
– Lời nguyện thầm + linh mục rước Máu Thánh
– Kinh cáo mình (giáo dân)
– Mời gọi
– Giáo dân rước lễ
– Tráng chén
– Ca hiệp lễ
– Lời nguyện hiệp lễ
– Lời cầu Ba Ngôi
– Hôn bàn thờ + Phép lành
– Tin Mừng cuối lễ (Ga 1,1-14)
– Lời nguyện sau lễ (bỏ, nếu sau đó có một cử hành phụng vụ khác)
A- Nghi thức Đầu lễ
– Ca nhập lễ
– Dấu thánh giá
– Lời chào chúc
– Lời dẫn lễ
– Hành động thống hối
– Kinh Lạy Chúa, xin thương xót (Kyrie)
– Kinh Vinh danh (Gloria)
– Lời nguyện nhập lễ
B- Phụng vụ Lời Chúa
– Các bài đọc Sách Thánh và những bài xen kẽ.
+ Bài đọc I
+ Thánh vịnh đáp ca
+ Bài đọc II (trong lễ Chúa nhật và lễ trọng)
+ Ca tiếp liên (trong một số lễ)
+ Tung hô Tin Mừng “Alleluia”
+ Bài Phúc Âm
– Bài giảng
– Kinh Tin kính
– Lời nguyện tín hữu (Lời nguyện Chung)
C- Phụng vụ Thánh Thể
– Chuẩn bị lễ vật
+ Rửa tay
+ Kêu mời cầu nguyện
+ Lời nguyện tiến lễ
+ Kinh Thánh, Thánh, Chí Thánh
+ Kinh khấn xin Chúa Thánh Thần (Epiclesis)
+ Tường thuật thiết lập bí tích Thánh Thể
+ Tung hô tưởng niệm
+ Kinh tưởng nhớ (Anamnesis)
+ Kinh cầu cho kẻ sống và kẻ chết
+ Vinh tụng ca kết thúc
+ Kinh Chiên Thiên Chúa
+ Rước lễ
+ Tráng chén
+ Lời nguyện hiệp lễ
– Phép lành cuối lễ
– Giải tán
2023
Những cách thức thăng tiến tình yêu dành cho Đức Mẹ Maria
Đó là Mẹ Maria diễm phúc, là con Thiên Chúa Cha, là thân mẫu của Chúa Con, và là đối tác huyền nhiệm của Chúa Thánh Thần. Mẹ là Nữ Vương các thiên thần, nữ vương các thánh hiển tu, Nữ vương các thánh tử đạo và các thánh trinh nữ, cũng là Nữ Vương kinh mân côi. Mẹ là Mẹ của chúng ta, điều đã được tuyên bố từ nơi thập giá – “Thưa Bà, đây là con của Bà; này anh, đây là Mẹ anh” (Ga 19,26-27). Quả thật, một lần nữa, đây chính là Đức Trinh Nữ Maria đầy diễm phúc. Ngoài ra, thánh Luy thành Montfort tụng ca người nữ diễm phúc này bằng những lời cao cả: “Mẹ Maria là tuyệt tác trong mọi thụ tạo của Thiên Chúa.” Chính thánh nhân đã quả quyết rằng con đường đến với Chúa Giêsu một cách chắc chắn nhất, mau chóng nhất và dễ dàng nhất là ngang qua con người và sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ rất thánh.
Trong các thời điểm khó khăn nhất giữa những giông bão, cám dỗ và phong ba dường như đang muốn nuốt chửng thế giới như hiện nay, hơn bao giờ hết, chúng ta phải đi tìm một chỗ ẩn nương an toàn nơi Mẹ Maria, nơi Trái tim tinh tuyền và vô nhiễm nguyên tội của Mẹ.
Như trong thời điểm tội lỗi thời ông Nôe, khi đó chỉ có một nơi cư trú duy nhất là bên trong con tàu ông Nôe, thì chúng ta cũng buộc lòng phải tìm được một nơi ẩn trú trong Con tàu Nương ẩn an toàn – đó là nơi vòng tay của Mẹ Maria. Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ Maria phải là con tàu Nôe dành cho chúng ta trong thời đại mới. Tại Fatima, chính Đức Mẹ đã tiên tri những lời yên ủi sau đây: “Cho đến tận cùng, Trái tim vô nhiễm của Mẹ sẽ chiến thắng.”
Xin cho chúng ta được biến đổi thành những mũi tên rực cháy trong cánh tay Mẹ Maria, đấng là Thánh Mẫu, Nữ Vương và là Thủ lãnh của một đạo binh xếp hàng vào trận. Mẹ chúng ta khát khao cháy bỏng rằng chúng ta sẽ trao hết trái tim, tâm trí và cả linh hồn cho Mẹ, hơn nữa Mẹ cũng khát mong rằng chúng ta hãy mang đến nhiều và thật nhiều những linh hồn khác nữa đến với nơi náu nương an toàn tuyệt đối là chính Trái Tim Mẹ.
Để được biến đổi thành những môn đệ nhiệt thành của Mẹ Maria, và dĩ nhiên cũng là môn đệ của Chúa Giêsu vì Đức Maria luôn dẫn đường cho chúng ta đến với Người – chúng ta phải hết mình học hiểu về Đức Maria nhiều hơn nữa.
Đó sẽ là mục đích của bài viết ngắn gọn này. Chúng tôi sẽ trình bày một số cách thức khác nhau để chúng ta có thể gia tăng sự hiểu biết về Đức Maria, ngõ hầu mến yêu Mẹ chân thành hơn và phó dâng cuộc đời của chúng ta cho Mẹ. Thật vậy, nơi ẩn nương an toàn trong thời đại mới này chính là Trái Tim Vô Nhiễm của Đức Maria.
1. Đức Maria và Thánh Kinh.
Trước hết và trên hết, chúng ta hãy tìm hiểu Đức Maria từ nguồn quan trọng nhất là Thánh Kinh, đó là Lời hằng sống của Thiên Chúa. Một trong những đoạn Kinh Thánh quan trọng nhất được tìm thấy trong Tin Mừng theo thánh Luca, chương một và chương hai. Trong hai chương này, chúng ta khám phá mầu nhiệm Nhập thể và toàn bộ năm Mầu nhiệm Vui của Kinh Mân Côi. Có rất nhiều những đoạn quan trọng khác, nhưng hãy bắt đầu với hai chương đầu của Tin Mừng theo thánh Luca.
2. Những vinh quang của Đức Maria: Thánh Alphonso Liguori.
Nhiều tác phẩm văn chương với chủ đề về Đức Maria được chấp bút trong khoảng 2000 năm qua. Điều này rất chính xác! Thế nhưng, vượt trên hết là tuyệt phẩm văn chương quý giá về Đức Maria của thánh Alphonso Liguori, Tiến sĩ Hội Thánh. Trong công trình của mình, thánh nhân dùng Kinh Lạy Nữ Vương – lời kinh chúng ta thường đọc khi kết thúc Kinh Mân Côi, và giải thích mỗi từ ngữ cách chi li từng chút. Sự giải thích tuyệt vời được thâu tập từ các nguồn văn lớn lao: đó là Thánh Kinh – cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, văn chương của các Giáo Phụ và các thánh trong Hội Thánh, tài liệu huấn quyền của các Giáo Hoàng, và nhiều nguồn văn khả tín khác. Sẽ là điều bất khả thi khi đọc tuyệt tác này mà không chìm đắm thâm sâu hơn vào tình yêu với Đức Mẹ, đấng làm cho chúng ta được sống, được vui, được cậy.
3. Ba lần hiện ra được công nhận của Đức Maria.
Chưa cần xét đến sự bắt buộc trong niềm tin của chúng ta, sẽ vẫn là một sự thiếu khôn ngoan khi bỏ qua hoặc không tin vào ba lần hiện ra của Đức Maria. Đó là những lần hiện ra tại Guadalupe, Lộ Đức và Fatima. Đức Mẹ Guadalupe hiện ra bốn lần với một người gốc Ấn, thánh Juan Diego vào năm 1531 và nói rằng người là Mẹ của chúng ta, và từ đây, gần 8 triệu người Mexico trở lại đạo trong khoảng 30 năm. Không một làn sóng hoán cải trong thời gian ngắn nào có thể sánh bằng sự can thiệp này của Mẹ Maria! Đức Mẹ Lộ Đức hiện ra 18 lần với thánh Bernadette Soubirous. Trong lần hiện ra cuối cùng, Bernadette hỏi tên của người nữ xinh đẹp. Mẹ Maria đã đích thân tuyên bố rằng: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.” Khi Bernadette trình bày việc này cho vị linh mục, tính chân thực của việc hiện ra đã được công nhận. Đức Giáo Hoàng Piô IX đã tuyên bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội vào bốn năm trước đó và chẳng có cách nào một cô gái nông thôn ít học có thể biết được điều này. Cuối cùng, tại Fatima – Bồ Đào Nha, Đức Mẹ đã hiện ra 6 lần với 3 trẻ chăn chiên là Lucia, Francisco và Jacinta. Sau đó, chính Mẹ đã xác nhận rằng mình là “Nữ Vương rất thánh Mân Côi.” Trong mỗi lần hiện ra, Đức Mẹ luôn dạy rằng các con hãy siêng năng lần hạt Mân Côi mỗi ngày.
4. Nghệ thuật về Đức Maria: Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
Các tuyệt tác nghệ thuật về Đức Maria gần như chiếm số lượng rất lớn. Dù vậy, bạn nên cố gắng để có được một bức tranh tuyệt mỹ về Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
Theo truyền thống, tuyệt tác này được gán cho tác giả là thánh Luca. Hãy chiêm ngắm ánh nhìn chăm chú của Đức Mẹ và tưởng tượng rằng Mẹ đang nhìn bạn với tình yêu giống như cách Mẹ đang bồng ẵm trẻ Giêsu, Đấng đang ngắm nhìn khí cụ của cuộc vượt qua dành cho Người trong tương lai. Hãy nhìn chiếc giày đang rơi khỏi một bên chân của Người. Cũng như hãy chiêm ngắm sự hiện diện của các thiên thần trong tác phẩm tuyệt mỹ này. Đừng ngần ngại mà hãy đặt bản thân mình trong cánh tay Mẹ Maria để tìm kiếm sự ủi an và che chở của một người mẹ.
5. Kinh nguyện xướng đáp Loreto (Kinh Cầu Đức Bà)
Giữa những sự biểu đạt của Kinh Thánh, thi ca và huyền bí vốn ca ngợi sự tuyệt mỹ của Đức Mẹ, chúng ta có các kinh nguyện xướng đáp. Bắt đầu với kinh Loreto – một kinh nguyện xướng đáp cổ xưa để ca tụng Đức Maria. Nếu chúng ta yêu mến và ngợi ca một ai đó, chúng ta sẽ ước mong nhấn mạnh và nêu bật lên các nhân đức của người ấy. Kinh nguyện tung hô này bao gồm một lượng lớn các danh hiệu và nhân đức cao quý mà Mẹ Maria đã sống và thi hành, đồng thời kinh nguyện này như một nguồn thúc đẩy chúng ta bắt chước các nhân đức của Mẹ và nên thánh như Chúa đã kêu mời chúng ta. Chúng ta luôn có khuynh hướng bắt chước những ai mà chúng ta yêu mến!
6. Những người bạn của Đức Maria trong cuộc đối thoại.
Tôi ghi nhận trong một thời gian rằng: có một thứ tình cảm và mối tương giao tình bạn thiêng liêng giữa những người có lòng yêu mến nhiệt thành và sự tận tâm với Đức Maria và cả những người khát mong triển nở với một nỗ lực cao quý để thăng tiến trong sự hiến dâng đích thực cho Mẹ Maria. Tắt một lời, hãy đến cùng những người khác để chia sẻ những hiểu biết của bạn về Đức Mẹ. Thật vậy, quả là một hành động lớn lao của đức bác ái khi sẻ chia những kho báu thiêng liêng, đặc biệt là sự hiểu biết và lòng mến dành cho Mẹ Maria. Biết bao người đã được dẫn đến cùng Chúa Giêsu và ơn cứu độ vĩnh cửu khi họ được giới thiệu về tình yêu của Mẹ chúng ta – Nữ Vương Thiên Đàng – Đức Maria. “Xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Ðức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp mà Ðức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời” (Kinh hãy nhớ)
7. Hội nghị và chuyên đề về Đức Maria
Hãy để đôi mắt và đôi tai của bạn mở ra cho những hội nghị, chuyên đề hoặc đối thoại đúng đắn, vững chắc và chính thống về Đức Trinh Nữ Maria. Trong nhiều năm qua, cha Donald Calloway đã viết một tác phẩm xuất sắc về Đức Maria – The Champions Of The Rosary (tạm dịch: Những nhà vô địch của Kinh Mân Côi). Cha cũng mang đến những cuộc đối thoại chất lượng về uy quyền của Kinh Mân Côi trong Lịch Sử Cứu Độ.
8. Sách tóm lược về Đức Maria
Hy vọng được bạn cho phép, tôi muốn khiêm tốn mời các bạn đón đọc cuốn sách của tôi: Marian Compendium – Sách tóm lược về Đức Maria, (TAN Books, 2022). Sau nhiều năm vất vả và lao nhọc, cuốn sách này đã được xuất bản; tôi tin rằng nó sẽ là một tuyệt tác. Trong tất cả sự chân thành, tôi tin tưởng công trình của tình yêu dành cho Đức Maria này có thể giúp ích thật nhiều cho bạn trong việc triển nở trong tình yêu và sự tận hiến dành cho Đức Maria, cũng như thăng tiến khao khát noi gương những nhân đức cao vời của Mẹ. Trong quyển sách tóm lược này, vốn được biết theo một kiểu văn rất dễ đọc, bạn sẽ khám phá những yếu tính của một nền Thánh Mẫu học vững chắc – một sự hiểu biết đích thực và một tình yêu chân chính dành cho Mẹ Maria. Cuốn sách này chứa đựng những điều như: Các tín điều về Đức Maria, Lòng sùng mộ Đức Maria, những lần hiện ra được công nhận của Mẹ, những ngày lễ kính nhớ Đức Mẹ, những trác tuyệt nghệ thuật đầy kỳ diệu và gợi hứng về Mẹ Maria, và cuối cùng, những kinh nguyện nổi tiếng dành cho Mẹ Maria.
Tóm lại, các bạn thân mến trong Chúa Giêsu và Mẹ Maria, một trong những sáng kiến và sự táo bạo, cũng như mục đích mà chúng ta có thể và nên đảm nhận trong đời sống là học biết và yêu mến Chúa Giêsu cách đầy đủ, tổng thể và nhiệt huyết trong mọi ngày của đời ta. Thế nhưng chúng ta nên học biết Chúa Giêsu qua trung gian là Đức Trinh Nữ Maria.
Tôi tin rằng, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã mô tả cách chính xác trong tông thư Đức Trinh Nữ Maria và Kinh Mân Côi. Đức Giáo Hoàng của lòng yêu mến Mẹ Maria này, với huy hiệu và khẩu hiệu của mình là “Totus tuus – Lạy Mẹ, tất cả của con là của Mẹ” từ thánh Louis thành Montfort, đã tuyên bố trong tông thư này rằng chúng ta nên cố gắng chiêm ngưỡng Dung Mạo Chúa Giêsu qua đôi mắt và Trái Tim Đức Mẹ Maria. Các bạn thân mến, điều này nên là mục đích của đời sống chúng ta: để chiêm ngắm Dung Mạo Chúa Giêsu ngang qua đôi mắt và Trái Tim của Mẹ Maria. Một khi hoàn thành được điều đó ở đời này, thì sau đó chúng ta sẽ tiếp tục chiêm ngưỡng Dung Nhan Chúa Giêsu mãi mãi trên Thiên đàng, và được ở cạnh Đức Maria, đấng làm cho chúng ta được sống, được vui, được cậy muôn đời.
Linh mục Ed Broom, OMV
Quang Sáng chuyển ngữ
2023
NGUỒN GỐC Ý NIỆM THƯỢNG ĐẾ
NGUỒN GỐC Ý NIỆM THƯỢNG ĐẾ
Decartes là người đầu tiên đi từ chỗ nhận định: ta có ý niệm rõ ràng và phân minh về Thiên Chúa, đến chỗ tự hỏi: từ đâu có ý niệm đó trong tâm linh ta? Và chúng ta biết rằng Decartes đã giải đáp theo chủ thuyết của ông: Ý niệm đó là do Thiên Chúa sáng tạo nên và đặt trong tâm linh tôi, như vết tay của hóa công ghi lại trên tác phẩm của mình. Chúng ta không thể đứng trong lập trường duy tâm của Decartes, chúng ta cũng đi từ sự kiện như Decartes, nghĩa là chúng ta bắt đầu bằng cuộc nghiên cứu nhận thức rằng: con người có ý niệm về Thượng Đế, nhưng rồi thay vì đưa ra giải pháp liều lĩnh của thuyết duy tâm, chúng ta sẽ nhờ lịch sử của các tôn giáo để tìm ra xuất xứ của ý niệm đó. Các học giả nghiên cứu về lịch sử của các tôn giáo đều công nhận rằng: ý niệm về thần linh và Thượng Đế xuất hiện rất sớm. Sự kiện tôn giáo bao giờ cũng đi trước sự xuất hiện của những môn phái triết học. Nhìn vào bất cứ thời đại nào, chúng ta cũng thấy con người được sinh trưởng trong bầu khí tôn giáo, cả những triết gia vô thần như Nietzche, Marx, Sartre… cũng đã lớn lên trong xã hội tôn giáo, được giáo dục bởi một nền văn minh thấm nhuần tôn giáo, được giáo dục bởi một nền văn minh thấm nhuần tôn giáo. Lịch sử cho hay chính tôn giáo đã nêu lên vấn đề và cũng chính tôn giáo đã cung cấp phạm trù tuyệt đối là căn nguyên sinh ra hiện tượng siêu việt, là nền tảng ý niệm triết học về Thượng Đế. Mà nói tôn giáo là nói con người tôn giáo, nghĩa là con người đã tới trình độ suy nghĩ về tình trạng bất lực của mình. Cho nên không có tôn giáo ngoài con người tôn giáo, cũng không có suy tưởng ngoài con người suy tưởng.
1. Khởi đầu ý niệm về thần linh và Thượng Đế
Mircea Eliade đã dùng những sự kiện hiển nhiên để chứng minh rằng: không phải do đường lối qui nạp, nhưng bằng một hành vi bất khả phân, con người đã nhận ra lãnh vực thần linh, và mặc dầu những dân tộc cổ sơ dùng những hình ảnh thô tục để chỉ Thượng Đế, nhưng thực sự họ đã ý thức về một Đấng ở trên đầu, một vũ trụ cao cả, siêu việt.
Người vô thần ngày nay thường vấn nạn rằng: Các dân tộc thái cổ đã thần thánh hóa trời, nhưng chúng ta hỏi lại họ: Những dân tộc kia đã lấy đâu ra ý niệm về Thượng Đế để rồi gán cho trời? Cho nên quyết đoán như họ là đưa lệch vấn đề đi thôi, chứ chưa phải là giải đáp. Thực ra có hai vấn đề hoàn toàn khác biệt nhau: Vấn đề căn bản: tức là vấn đề yếu tính của ý niệm đó; và sau là vấn đề hoàn cảnh thực tế, tức vấn đề hình thức. Dầu con người ở miền sông Nil đã tôn thờ Thượng Đế dưới hình thức mặt trời; dầu dân tộc Trung Hoa thời Đức Khổng Tử đã thờ kính Thượng Đế dưới hình thức Thiên; dầu dân tộc Ấn Độ thời trước Phật Thích Ca đã tôn thờ Thượng Đế dưới huy hiệu Balamôn..v..v..
Ý niệm về Đấng Siêu Việt đã đến với con người như một thức tỉnh và như một hiện tượng đột ngột. Nói thế, nghĩa là chúng ta không thể dùng những sự kiện tâm lý hay xã hội, hay bất cứ khoa học nào để giải nghĩa sự phát triển của ý niệm kia. Nhưng là: không thể lấy những hoàn cảnh địa lý hay xã hội để giải nghĩa chính sinh hoạt tinh thần của con người: không thể dùng những hiện tượng sấm sét để giải nghĩa hiện tượng con người về Thượng Đế, cùng lắm những hoàn cảnh đó chỉ là dịp và là môi trường cho sự phát sinh kia mà thôi. Hoàn cảnh không phải là nguyên nhân.
Trong lãnh vực sinh hoạt tinh thần, điều này còn đúng hơn nữa vì có sự vượt bậc. Pascal đã nói: “Tất cả vũ trụ vật chất không tạo nên một mảy may tinh thần, vì đó là hai trật tự khác nhau”.
Như thế, khả năng truy nhận có một vị thần linh cao quang thống trị vạn vật là một khả năng của con người. Người ta có thể lấy những hoàn cảnh của bên ngoài để giải nghĩa thực sự như triết học và tâm lý học chứng minh. Sự vật chỉ có ý nghĩa cho một ý thức biết nhận ra ý nghĩa đó mà thôi. Cho nên chúng ta không tìm thấy phát nguyên của ý niệm Thượng Đế ở ngoài sinh hoạt tinh thần của con người, mà sinh hoạt không phải là lý thuyết hay lý luận nhưng là lịch sử. Cho nên chúng ta chỉ phải ghi nhận sự xuất hiện kia như một quá trình sinh hoạt tinh thần của con người mà thôi.
2. Ý niệm về Thượng đế do đâu mà có ?
Vậy ý niệm về Thượng Đế do có suy luận hay do bản năng thần thoại mà ra, không thiếu người chủ trương do suy luận. Theo họ con người nhận ra Thượng Đế khi họ suy nghĩ về vũ trụ và về bản thân thấy rằng phải có Thượng Đế mới giải nghĩa được nguồn gốc vũ trụ và nguồn gốc của con người. Cách giải nghĩa này sẽ đưa chúng ta tới Thượng Đế của các triết gia. Nhưng chúng ta đã tạm đủ lý do để quyết rằng không có Thượng Đế của triết gia ngoài Thượng Đế của con người tôn giáo. Đúng như một triết gia đã nhận định tâm hồn tôn giáo đi tới Thượng Đế do con người tín ngưỡng, không do con đường của luân lý biện chứng.
Nói thế không có nghĩa là những người tín hữu không luận lý sâu xa, mỗi khi họ suy tư về tín ngưỡng của họ. Nhưng chúng ta chỉ có ý nhấn mạnh rằng: tín ngưỡng còn ở một bình diện sâu hơn ý nghĩa kia nhiều lắm. Có thể nói tín ngưỡng thuộc về một trật tự riêng biệt, tín ngưỡng là một hành vi đặc loại. Vì thế thay vì tách Thượng Đế làm hai để vừa làm đối tượng cho lý trí, vừa làm đối tượng cho tín ngưỡng. Một đàng là Thượng Đế của các triết gia, và đàng khác là Thượng Đế của tôn giáo. Chúng ta nên nhận thức rằng: Niệm tưởng tuyệt đối và niệm tưởng siêu việt chỉ là chính Thượng Đế nhìn qua lăng kính của suy niệm triết học mà thôi.
Như vậy ý niệm về Thượng Đế không thể do suy luận mà có, trái lại lý luận đã ngấm ngầm dựa vào niệm tưởng tuyệt đối đó để lập luận. Ngay từ khi suy luận và chứng minh về Thượng Đế, ý niệm về Người đã hiện ra như nền tảng cho những lý luận kia. Vậy phải nhận rằng thần thoại đã phát sinh ra Thượng Đế chăng? Giả thuyết này đã có một số người chủ trương và khai thác, lập luận của họ là ý niệm về Thượng Đế, là thành quả của phản ảnh xã hội và phóng thể ý thức. Những dân tộc nông nghiệp sẽ tự tạo cho mình những vị thần nông; những dân tộc của chiến tranh đều đã có những vị thần chiến thắng; những dân tộc sống bằng nghề chăn nuôi thì có những vị thần mục tử. Phản ảnh sinh hoạt này được hoàn thành khi các bộ lạc kia trở thành những quốc gia, rồi thành đế quốc. Khi đó vị thần của các dân tộc kia cũng biến thành những vị thần của tổ quốc và của đế quốc. Các thần linh của những nước bị trị đều phủ phục dưới chân của vị thần nước chiến thắng.
Hơn nữa, về những tài năng đức tính của thần linh có thuyết giả thuyết rằng: con người càng tân tiến thì lý tưởng luân lý càng cao, nhưng thay vì coi những đức tính kia là đức tính con người phải có, con người lại phóng chúng lên tận ý thức thần thoại, thành thử con người đã gán đức tính đó cho thần linh như thiện tâm – công minh – toàn năng, v.v..
Cách giải thích trên đây thoạt coi tưởng hợp lý lắm. Tuy nhiên khi nghiên cứu cho cùng, chúng ta thấy nó có vẻ hợp lý thôi, bởi vì giả thuyết đó vẫn không cho ta biết những nguyên tắc của ý niệm về Thượng Đế, và còn không giải nghĩa được một vài sự kiện quan trọng khác của lịch sử nữa.
– Trước hết, giả thuyết đó vẫn chưa giải quyết chi vấn đề nguồn gốc về Thượng Đế, khi họ bảo con người nông nghiệp đã vẽ ra một thần linh nông phu, và một thần linh mục tử. Họ mới chỉ nói đến khía cạnh hình thức và khía cạnh diễn tả của ý niệm kia mà thôi, chưa đả động chi đến ý niệm đó. Trái táo không giải nghĩa được định luật vạn vật hấp dẫn của Newton, và guồng tát nước ở miền sông Nil không giải nghĩa được sự phát sinh ra khoa hình học; Sấm sét và những hiện tượng trong trời đất không sinh ra óc thần thoại. Trái lại chính bản năng thần thoại của con người, đã mặc cho những hiện tượng kia một ý nghĩa mà tự chúng không có. Ý nghĩa chỉ là ý nghĩa cho một ý thức mà thôi. Thành thử giả thuyết chỉ xê vấn đề đi sang chỗ khác, chứ không giúp ta giải quyết vấn đề.
– Sự kiện thứ hai không được giả thuyết trên giải quyết là: Người ta bảo thuyết độc thần là thành quả của sự thống nhất lâu la giữa các quốc gia hùng cường. Nhưng nếu vậy thì làm sao giải nghĩa được lịch sử Ấn Độ là nơi những hệ thống triết học tôn giáo sâu xa, và những hình thức phụng thờ rất cần thiết, đã nẩy nở giữa lòng một nền kinh tế cổ sơ và một nền chính trị chưa thành hình. Nhất là hỏi người ta đã đọc câu đầu của thập giới Do Thái chưa?
Chúng ta thấy người ta đã lầm lẫn một cách tai hại trong việc giải nghĩa về nguồn gốc ta có về Thượng Đế. Người ta đã muốn lấy hậu quả để giải thích nguyên nhân, vì người ta đã lấy thần thoại để giải nghĩa bản năng thần thoại. Như vậy chúng ta đã có thể trả lời câu hỏi óc suy luận hay bản năng thần thoại đã tạo ra ý niệm về Thượng Đế. Câu trả lời của chúng ta là: không phải riêng óc suy luận cũng không riêng bản năng thần thoại. Óc suy luận một mình nó sẽ tạo ra một Thượng Đế nguyên lý, ngược lại nguyên chỉ bản năng thần thoại sẽ vẽ vời ra những Thượng Đế mang đầy những đam mê nhu cầu và tham vọng của con người.
Vậy ý niệm về Thượng Đế không nằm trong óc suy luận và cũng không là sản phẩm của bản năng thần thoại. Tâm trí con người đã do cả hai khả năng đó để đi tới Thượng Đế. Nói là đi tới chứ không nói là phát sinh, bởi vì ý niệm về Thượng Đế không phải là sản phẩm của tâm trí ta, nhưng nó phát sinh khi ta bắt đầu có tương quan với siêu việt. Nói cách khác ý nghĩa về Thượng Đế là chính ý thức ta có về siêu việt.
3. Về ý niệm Thượng Đế duy nhất
Còn một vấn đề trực tiếp liên hệ đến vấn đề ý niệm về Thượng Đế, đó là vấn đề về ý niệm Thượng Đế duy nhất. Con người có ý thức về thần linh, nhưng tại đâu con người có ý thức về một Thượng Đế duy nhất? Thuyết độc thần xuất hiện thế nào? Đây là một điều thuộc khoa lịch sử các tôn giáo. Tuy nhiên người ta cũng đọc một sự kiện bằng hai ba cách khác nhau, vì thế có hai ba cách giải nghĩa sự kiện lịch sử.
Có hai học thuyết chính: Một thuyết cho là do tiến hóa mà con người đi tới độc thần, còn thuyết kia lại cho rằng do cách mạng.
– Thuyết chủ trương tiến hóa cho rằng: con người bắt đầu theo thuyết đa thần, rồi dần dần ý thức xã hội đã làm cho con người thống nhất chư thần thành một thế giới thần linh, có một vị chúa tể thần linh ngự trị, có lẽ tư tưởng thần thoại Hy lạp, đã do con đường này để đi tới một Zeus Chúa tể. Núi Olimpe và chúa tể chư thần.
– Thuyết thứ hai cho rằng ý niệm về độc thần đã xuất hiện thình lình như một cuộc cách mạng. Con người đã đột nhiên ý thức về chỗ phi lý của thuyết đa thần, cho nên đã chống lại thuyết này và khai mạc kỷ nguyên mới của thuyết độc thần.
Chúng ta phải nghĩ gì về hai giả thuyết này?
Phải công nhận rằng mỗi giả thuyết đều nói lên một phương diện của hiện thực. Thuyết tiến hóa đã nhắc lại quá trình tín ngưỡng của nhân loại, từ những quan niệm mơ hồ và đầy nhân ảnh, đến những quan niệm đích thực hơn của ngày nay; nhưng thuyết cách mạng cũng nói lên một sự thực quan trọng, ý thức về độc thân đã được đào sâu trong những tranh đấu với những cảnh tưởng đa thần. Một lịch sử dân Do Thái với những vị đại ngôn, luôn luôn chống lại khuynh hướng đa thần của quần chúng cũng đủ cho ta thấy vai trò của cách mạng. Tuy nhiên có những giả thuyết tiến hóa hay cách mạng đều chưa đi sâu vào nguồn ngọn vấn đề, cả hai giả thuyết đó chỉ mới nói đến hình thức phát sinh ra thuyết độc thần mà thôi, chưa nói gì đến ý hướng phát sinh ra ý thức độc thần đó.
Hai giả thuyết kia đều đã lấy thuyết đa thần làm sự kiện nguyên thủy, và coi thuyết độc thần là hình thức tân tiến về sau. Nhìn vào lịch sử những nền văn minh vĩ đại nhất của nhân loại, người ta thấy ít là điều đó không khác lắm. Hơn nữa ba nền văn minh đã có và vẫn còn ảnh hưởng quyết định trên sinh hoạt tôn giáo của nhân loại. Hình như đã bắt đầu bằng thuyết độc thân rõ ràng, đó là ba nền văn minh Do Thái – Trung Hoa – Ấn Độ.
3.1. Về Do Thái chúng ta không cần mất nhiều thời gian tìm tòi. Truyền thống do Thái là một truyền thống độc thần ngay từ đầu và qua bao nhiêu thế hệ. Ý thức độc thần đó đã trải qua những cám dỗ rất nhiều và rất nặng nề để trung thành với Giavê.
3.2. Còn ở Trung Hoa thuyết độc thần hiện ra rõ ràng ở cả những truyền thống Khổng Minh và Lão Trang. Theo Khổng Mạnh chính ý Trời là bản tính vạn vật. Vạn vật đã được tác thành đúng như ý trời, mà trời đây có nghĩa là một vị Thiên Chúa. Lòng tin tưởng ngàn xưa của người Trung Hoa vào một Đấng Thiên Chủ, một Thượng Đế duy nhất và không có ngã vị. Lòng tin tưởng này được minh chứng và nói nhiều trong Kinh Thi và Kinh Sử, tức là quãng thế kỷ 11 đến thế kỷ 7 trước Tây lịch. Lòng tin tưởng này xem ra còn mãnh liệt ở thời Khổng Tử và Mạnh Tử, đến tác giả cuốn Đạo Đức Kinh thi thuyết độc thần muốn biến thành phiếm thần. Thượng Đế có ngôi vị nhường chỗ cho một Thượng Đế có nội tại trong vũ trụ. Như vậy thuyết độc thần hiện ra rõ rệt từ thời Thái cổ của dân Trung Hoa, và được truyền tụng nơi học thuyết Khổng Mạnh. Thuyết Lão Trang là thuyết đến sau và tuy có khuynh hướng phiếm thần, có lẽ nói huyền bí thì đúng hơn, nhưng nhất định không có khuynh hướng đa thần.
3.3. Nhìn vào lịch sử tư tưởng Ấn Độ, người ta thường có cảm giác kinh sợ vì những rối rít và những cảnh âm của nền triết học quá nặng chất huyền bí đó. Tuy nhiên một sự kiện hiện ra khá minh bạch. Thời Phệ Đà (Venus) là thời kỳ nguyên thủy đầy thân chủ và những lễ nghi dị đoan. Hơn nữa, đây là thời kỳ mà hình thức đa thần, có thể làm người ta lầm tưởng rằng chúng ta đang đứng trước một thuyết đa thần. Thực vậy ta thấy nào là thần Brahma, thần Savitar, thần Voruna… Nhưng khi đọc kỹ những trang trong kinh Phệ đà, người ta không thể không công nhận với những học giả như giáo sư Renou rằng: Thuyết Phệ đà đã là một thuyết nhất thần.
Nhất thần khác độc thần ở chỗ, con người coi nhiều vị thần khác nhau như những hình hài của cùng một vị thần tuyệt đối. Truyền thống nhất thần của Ấn Độ càng hiện ra rõ rệt ở tôn giáo họ ngày nay. Nhưng có lẽ cần chú ý rằng liền sau thời kỳ Phệ đà, tiếp đến thời kỳ của những kinh Upanishad, mà đề tài chính cũng như chủ trương của những kinh này là chỉ có một thực thể duy nhất là Balamon. Tất nhiên người ta sẽ vấn nạn rằng: học thuyết của các kinh Upanishad không phải là độc thần nhưng là độc nguyên (một nguyên nhân, một nguồn gốc). Chúng ta không chối cãi điều đó, hơn nữa chúng ta lấy đó làm đủ để khước từ hai giả thuyết tiến hóa và cách mạng trên kia, là hai thuyết cùng chủ trương rằng ý niệm độc thần đến sau ý niệm đa thần.
Nói sao thì nói thuyết nhất thần và thuyết độc nguyên, nhất định gắn liền với lập trường độc thần hơn là với chủ trương đa thần.
Sau cùng, đứng về phương diện phê bình mà xét, chúng ta cũng phải công nhận rằng ý niệm đơn thần đã xuất hiện ngay từ đầu, hoặc xuất hiện minh bạch như nơi văn minh Do Thái, hoặc tiềm tàng nơi bất cứ văn minh nào khác. Nếu con người không có ít là một ý thức lờ mờ về một chúa tể tối cao toàn quyền tuyệt đối trên hết mọi loài thụ tạo, thì làm sao con người lại có thể hoặc do đường lối tiến hóa, hoặc do đường lối cách mạng để có ý niệm đó được. Chúng ta có thể nhận định ngay rằng: không một đòi hỏi nào mà không có một ý thức ít là lờ mờ về cái mà chúng ta đòi hỏi. Thí dụ: một người thợ chưa ý thức về quyền lợi của họ, và chưa ý thức về nhu cầu chính đáng, họ có đề nghị những đòi hỏi, thì không thể có những đòi hỏi và yêu sách.
Cũng một lẽ, khi con người cảm thấy bất mãn về những hình thức đa thần, thì chính là vì họ đã ý thức về sự cao quí và hợp lý của thuyết độc thần, ấy là nói theo giả thuyết tiến hóa và giả thuyết cách mạng, thành thử hai giả thuyết đó không những không giải nghĩa được sự kiện độc thần, mà còn phải giả thuyết có ý thức độc thần trước thì mới hiểu được sự kiện tiến hóa, hoặc sự kiện cách mạng, cho nên cũng như trường hợp ý niệm về thần minh trên kia.
Ở đây chúng ta cũng phải công nhận rằng: không thể lấy những lịch sử để giải nghĩa sinh hoạt tinh thần con người. Vì lịch sử không làm nên tinh thần đó, nhưng chính sinh hoạt đó làm cho lịch sử có khuôn mặt như thế. Sở dĩ người ta đã nghĩ như thuyết tiến hóa và thuyết cách mạng, là vì người ta đã bị tiêm nhiễm những thiên kiến của khoa tâm lý học cổ truyền, cho rằng ý niệm về Thượng Đế là một thành quả của những biến cố tâm linh, phản ảnh đúng những biến cố ngoài vũ trụ.
Husserl đã chứng minh sự vô lý của thiên kiến về vũ trụ khách thể đó. Tâm lý học ngày nay vạch cho thấy ý nghĩ không có sẵn nơi vạn vật như những bản tính nội tại, chỉ có ý nghĩa cho những ý thức mà thôi. Khi bỏ được thiên kiến về vũ trụ tuyệt đối khách thể rồi. Chúng ta thấy vấn đề nguồn gốc ý niệm về Thượng Đế được giải nghĩa một cách rõ ràng và ổn thỏa.