2024
Lên Trời với Chúa
9.5 Lễ Thăng Thiên
Người ta thường bảo ra đi là chết trong lòng một chút. Sự chia lìa với người thân yêu bao giờ cũng đem lại buồn đau, mặc dù chúng ta biết rằng người ấy sẽ gặp được những may mắn. Vậy phải chăng Giáo hội mặc lấy những tâm tình sầu khổ khi cử hành lễ Chúa về trời. Không, trái lại đây là một ngày lễ ngập tràn niềm vui. Chúng ta vui mừng cho Chúa cũng như cho chúng ta.
Mừng Chúa lên trời có nghĩa là mừng Ngài được tôn vinh sau khi hoàn thành sứ mạng Chúa Cha đã trao phó. Ngài đã hoàn thành trong sự vâng phục và yêu thương, ngay cả trong việc chấp nhận thập giá để cứu chuộc mọi người. Vinh quang được trao ban cho Ngài, vì Ngài đã chấp nhận hy sinh tất cả. Nói cách khác, Ngài đã đi trọn con đường của yêu thương, không nề hà bất cứ một cử chỉ hay một hành động nào, để bày tỏ lòng yêu thương của Thiên Chúa đối vơi con người.
Chúa Giêsu lên trời, nhưng Trời ở đâu? Trong Kinh Thánh, “trời” là hình ảnh văn chương quen thuộc dùng để chỉ nơi Thiên Chúa ngự. Kinh Thánh cũng dùng hình ảnh đám mây để nói về sự hiện diện của Thiên Chúa, ví dụ: khi dân Chúa tiến bước trong sa mạc, thì có đám mây đi theo, Vậy chúng ta đừng hiểu cách mô ta của Thánh Luca trong Kinh Thánh theo nghĩa đen theo kiểu Chúa bay vào không gian như một phi hành gia. Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là Người được vĩnh viễn đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, được nên ngang hàng với Thiên Chúa và được đặt làm Chúa mọi loài mọi vật.
Chúa Giêsu lên trời hay còn gọi là lễ Thăng Thiên. Biến cố Thăng Thiên của Chúa Giêsu chấm dứt một lịch sử và khởi đầu một lịch sử. Lịch sử chấm dứt là lịch sử nào? Thưa đó là lịch sử cuộc đời của Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể ở giữa trần gian, biến cố Thăng Thiên chấm dứt sự hiện diện hữu hình của Chúa Giêsu ở giữa thế gian. Còn lịch sử bắt đầu là lịch sử nào? Thưa là lịch sử của Hội Thánh, lịch sử này tiếp nối công cuộc cứu độ của Chúa Cứu Thế trên trần gian cho đến ngày Người trở lại trong vinh quang.
Thánh Luca viết: Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời, thì kìa hai người đàn ông mặc ao trắng đứng bên cạnh và nói “Hỡi những người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Câu nói cua các thiên sứ nhắc nhở các tông đồ phải trở về với nhiệm vụ đã được Thầy giao phó mà các Ngài phải chu toàn cho đến ngày tận thế.
Chúa Giêsu lên trời là một điều chắc chắn. Đây là một mầu nhiệm, một tín điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính “ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh, Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha”, một hy vọng cho chúng ta hướng đến khi suy niệm Năm Sự Mừng, thứ hai Đức Chúa Giêsu lên trời, Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời.
Chúa Giêsu lên trời là để dọn chỗ cho các môn đệ và Người sẽ trở lại để đem họ về trời với Người. Chúng ta là người kitô hữu, qua bí tích rửa tội, chúng ta trở nên những môn đệ của Chúa Giêsu. Chúng ta sống đạo là để chúng ta được Chúa cho chúng ta lên thiên đàng trong ngày sau hết. Nhưng để được lên thiên đàng cũng phải có những điều kiện.
Đó là làm theo những lệnh truyền của Chúa: phải sám hối từ bỏ mọi tội lỗi, các đam mê xấu và tin vào Tin Mừng của Chúa, để được ơn tha thứ và trở nên con cái Thiên Chúa; phải thực hành các giới răn của Chúa và những lời dạy của Hội Thánh, nhất là giới răn yêu thương. Bởi thiên đàng là nơi sống yêu thương, những ai sống trong thù hận, chia rẽ, ghen ghét, hay chửi rủa, hay nói hành nói xấu người khác, thì không thể lên thiên đàng được, họ sẽ không hoà hợp được với lối sống thien đàng vì họ không biết yêu thương. Muốn được lên thiên đàng sau khi chết chúng ta phải xây dựng cho mình một thiên đàng ngay tại thế gian này bằng một đời sống luôn biết yêu thương, biết chia cơm sẽ áo cho những người nghèo đói, giúp các bệnh nhân nghèo có phượng tiện chữa bệnh, thăm viếng an ủi những người đau khổ cả về thể xác cũng như tâm hồn, động viên các tội nhân ăn năn sám hối và sớm trở về giao hoà với Thiên Chúa. Sống yeu thương là sống làm chứng cho người khác biết rằng có một cuộc sống mai sau thật tốt đẹp trong Chúa.
Tin Mừng Chúa Giêsu theo thánh Matthêu không nói Đức Giêsu lên trời, mà lại nói Đức Giêsu ở lại mãi với con người: “Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt. 28,20). Theo thánh Matthêu, Chúa Giêsu là Emmanuel, nghĩa là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Thiên Chúa ở với con người (Mt. 1,23).
Nếu Chúa Giêsu là Đấng qua Ngài Thiên Chúa ở với con người, thì đâu có khi nào Chúa Giêsu rời con người nữa. Thiên Chúa không ở xa con người, nhưng ở gần thật gần con người, một cách đặc biệt qua Chúa Giêsu. Tin Mừng theo thánh Matthêu cũng cho thấy Chúa Giêsu đã nói: “nơi nào có hai hay ba người họp nhau nhân danh Thầy, thì Thầy ở đó, giữa họ” (Mt.18, 20). Tin Mừng Chúa Giêsu theo thánh Gioan cũng có những tư tưởng tương tự: “ai yêu men Thầy, sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga.14, 23). Chúa Giêsu ở với các tông đồ, ở với những người nhờ lời các tông đồ mà tin vào Chúa Giêsu.
Ý niệm Chúa Giêsu ở với con người, hàm chứa niềm tin Chúa Giêsu “đang sống” một cách nào đó. Đây không chỉ là “đang sống” theo nghĩa những người còn đang sống tưởng nhớ tới Ngài, nhưng thật sự Ngài vẫn đang sống độc lập và khách quan đối với tư tưởng của con người. Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn đang sống và ở với con người bất chấp con người có biết hoặc ý thức điều đó hay không.
Chúa Giêsu được đưa về trời, khai mở vương quốc bất diệt. Ngài là Vua, là Chúa tể hoàn vũ và Satan không thể làm được gì đối với vương quốc ấy. Satan cám dỗ con người để chúng ta quên đi Đức Kitô là Vua vũ trụ. Ma quỷ làm mọi cách để cắt đứt sự liên lạc giữa chúng ta với Ngài. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại, trước khi bị ném đá đến chết, Thánh Stêphanô đã ngước mắt lên trời và thấy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha. Các sách Tân ước đều khải thị cho chúng ta hình ảnh Đức Giêsu Đấng Cứu thế, là Vua hoàn vũ, là Vua chiến thắng, để gọi mời chúng ta tin vào Ngài.
Trước sự kiện Chúa lên trời, tâm hồn các tông đồ ngập tràn niềm vui, chứa chan niềm hy vọng và sẵn lòng rộng mở để thực thi sứ mạng mà Chúa Giêsu đã chuyển giao. Đây là ba nét căn bản đã làm đổi thay các Ngài một cách toàn diện: Niềm vui, niềm hy vọng, và việc thực thi sứ mạng rao giảng.
Chớ gì mỗi người chúng ta hôm nay, cũng như các tông đồ năm xưa, có thể trải nghiệm niềm vui và niềm hy vọng. Đồng thời, tiếp nối dấu chân của các tông đồ, chúng ta hân hoan lên đường thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Giêsu đã chuyển giao cho chúng ta trước khi Ngài trở về với Chúa Cha.
2024
Khi Thánh Thần Chân Lý đến
8.6Thứ Tư trong tuần thứ Sáu Mùa Phục Sinh
Cv 17:15,2218; Tv 148:1-2,11-12,12-14,14; Ga 16:12-15
Khi Thánh Thần Chân Lý đến
“Ta còn nhiều điều phải nói với các con” (c.12)
Chúng ta hiểu câu nói đó như thế nào ? Chắc chắn rằng Chúa Giêsu đã nói tất cả những gì là giáo lý của ơn cứu rỗi. Không ai thêm hay bớt một dấu phẩy nào vào đó nữa. Vì thế Chúa Giêsu được gọi là Đấng mạc khải hoàn hảo của Thiên Chúa Cha, cho nên không có chuyện gọi là “mạc khải của Thánh Thần”. Tất cả mọi mạc khải đều bởi Chúa Giêsu vì Ngài là “Ngôi Lời của Thiên Chúa” (Gio 1,1.14), là Đấng duy nhất thấy được Thiên Chúa Cha và có quyền “cắt nghĩa” về Thiên Chúa Cha (1,18). Nhưng chân lý mạc khải đó sẽ được hiểu dần trong tinh thần và trong chân lý. Khi hứa ban Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu đã nói: ”Chính Người sẽ dạy các ngươi mọi sự, sẽ nhắc nhở các ngươi mọi điều mà TA đã nói với các ngươi” (14,26).
Đứng trước một chân, thiện, mỹ không dễ gì mà chúng ta lĩnh hội thẩm thấu ngay được. Một bản văn hay mấy mà đưa cho một em bé tiểu học đọc, thì làm sao nó hiểu được cái hay của văn chương. Cho nên phải được học hỏi từ từ. Chính thánh Phaolô Cũng từng ví chúng ta trên lãnh vực siêu nhiên như em bé buổi đầu ăn sữa mẹ, rồi ăn cơm mớm… thịt (1C 3,1).
Để hiểu được một chân lý mạc khải cũng phải dần dần hoặc trong lịch sử đời mỗi người hoặc trong lịch sử nhân loại. Chẳng hạn tín điều về Đức Mẹ hồn xác lên trời mãi tới năm 1950 mới được định tín. Thật ra đây không phải là một giáo lý của Chúa Thánh Thần. Chân lý này đã bao hàm trong kinh thánh, Thánh truyền và trải qua những thế hệ. Chúa Thánh Thần thúc đẩy soi sáng để đi tới quyết định dứt khoát một điều phải tin. Đó là việc của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta nên biết rằng tất cả mọi chân lý của Chúa Giêsu cũng đều bởi Thiên Chúa Cha, và Chúa Thánh Thần cũng múc nguồn từ đó. Cho nên tất cả chỉ là một người mà ra. Chính Chúa Giêsu đã từng quả quyết Ngài không nói gì, là gì nếu không nhận được bởi Thiên Chúa Cha (Ga 717. 8,26-40. 12,49. 14.10). Cũng thế Chúa Thánh Thần chỉ giảng dạy những gì nghe nhận được từ Ngôi Cha và Ngôi Con (Gio 15,26). Vai trò của Chúa Thánh Thần là làm sáng tỏ chân lý, khai thông trí hiểu và mở rộng con tim vươn tới sự thật của tình yêu chân lý. Từ đó Chúa Thánh Thần được gọi là “Thần chân lý”, “Thần của sự thật”.
Chúa Thánh Thần không phải là một thầy giáo. Nhưng đúng ra là một người nhắc nhớ, một người giải thích chân lý của một bậc thầy là Chúa Giêsu. Ngài không nói với uy quyền riêng mình như kiểu Chúa Giêsu (Ga 3,32,7,16,17. 8,26-28,12-14.15,15), nhưng chỉ là một Đấng mạc khải của Thiên Chúa Cha và làm vinh danh Ngài (Ga 12,28.14,13. 15,8. 17,4-6).
Chúa Thánh Thần còn là một vai trò nữa, ngoài việc nhắc nhở các tông đồ, Ngài còn một nhiệm vụ là soi sáng áp dụng chân lý vào hoàn cảnh sống của từng thời đại để hiểu và sống chân lý mà đạt tới cùng đích nước trời. Cho nên chúng ta thấy những biến cố đời Chúa như núi Sọ, Phục sinh, lên trời không phải chỉ là một sự kiện lịch sử như bao sự kiện khác. nhưng trái lại một sự kiện đã xảy ra cả hai ngàn năm, nhưng hôm nay âm hưởng của những sự kiện đó vẫn như mới xảy ra nơi mỗi tâm hồn. Đó là việc làm của Chúa Thánh Thần.
Cho nên khi nói Chúa Thánh Thần sẽ làm cho tín hữu Chúa thành những tiên tri không phải để tiên đoán thời tiết, nói tiên tri đâu… Nhưng là để họ khám phá ra ý định của Thiên Chúa trong mỗi hoàn cảnh sống. Giúp họ biết đọc những dấu hiện của thời mình sống để mà sống đúng thánh ý Thiên Chúa. Chị Samaria bên bờ giếng nước thường đã đọc được ý nghĩ sâu của nước Trường sinh (Ga 4,25).
Có hai cái khó khăn làm mờ vai trò Chúa Thánh Thần trong đời sống con người chúng ta là lý trí cằn cỗi và con tim khô cạn. Trí khôn của chúng ta không còn muốn suy tư tìm tòi vết tích của Chúa nữa. Con tim thì khô cạn tình yêu, đem tình yêu đáng lẽ phải dành cho Chúa đi biếu không đâu đâu. Chúng ta cần cầu xin Chúa Thánh Thần sửa đổi lại mọi sự trong ngoài để hiểu được Ngài và chân lý hằng sống của Ngài.
Chúa Giêsu hứa rằng chúng ta sẽ được dẫn đưa vào chân lý trọn vẹn. Phải chăng như thế có nghĩa là chúng ta sẽ biết được mọi bí ẩn của vũ trụ, là chúng ta sẽ có được một kiến thức bách khoa và không có gì nằm ngoài sự hiểu biết của chúng ta trong những thứ đang hiện hữu và cách vận hành của chúng? Tôi không nghĩ như vậy. Phúc âm hôm nay đưa chúng ta vào một chiều kích khác: chân lý trọn vẹn, ấy là một ai đó, một Đấng.
Chân lý trong Kitô giáo là một Đấng đã làm chứng rằng Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. Chúa Giêsu làm chứng rằng cuộc sống chúng ta được tiền định để trở nên vĩnh cửu, vượt qua cái chết. Qua bản thân mình, Ngài làm chứng rằng phương cách để biến một cuộc sống có thể bị hủy hoại thành một cuộc sống vĩnh cửu là dâng hiến mạng sống mình cho người khác.
Trong Kitô giáo, ta tin vào một Đấng, và Đấng ấy nói thật. Chứng từ Ngài thì chân thật. Ta không tin vào những nguyên tắc, những mầu nhiệm: những chân lý: ta tin vào một Đấng. Mặc khải của Thiên Chúa cho biết về một Đấng đang hành động một cách nhân từ đối với con người.
Chúng ta đã quá coi trọng những công thức đến độ tin rằng mình có đức tin khi chấp nhận những công thức, những tín điều. Nhưng chúng ta không bao giờ chạm đến được Đấng mà các nhà thần học đã chôn vùi dưới trăm ngàn từ ngữ.
Trong Thánh lễ, chúng ta hãy chúc tụng Chúa vì đã cho chúng ta đạt đến đức tin. và hãy cảm tạ Người vì đã ban cho chúng ta Thánh Thần, Đấng tiếp tục mặc khải cho chúng ta điều kỳ diệu là Chúa Giêsu Kitô, Đấng chân thật mà chúng ta có thể hoàn toàn tin cậy và tín thác vào Ngài.
2024
Chúa Thánh Thần là Đấng tố cáo thế gian
7.5Thứ Ba trong tuần thứ Sáu Mùa Phục Sinh
Cv 16:22-34; Tv 138:1-2,2-3,7-8; Ga 16:5-11
Chúa Thánh Thần là Đấng tố cáo thế gian
Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ ra đi, nhưng Ngài sẽ gửi Chúa Thánh Thần đến để làm chứng cho Ngài, và Chúa Thánh Thần sẽ đến để thực thi sứ vụ là tố cáo thế gian vì đã không tin nhận Chúa Giêsu. Người cũng tố cáo những điều sai lỗi mà thế gian đã làm.
Nói cách khác, Người đến làm cho Lời của Chúa Giêsu được bừng sáng lên, đồng thời cũng làm cho sự xấu xa, tội lỗi bị lên án.
Chúa Kitô đã sống lại, đã phục sinh. Cuộc sống mới của Ngài không còn lệ thuộc, không còn cần đến đời sống của Ngài. Nhưng dù cũ hay mới, một khi Ngài đã lăn xả vào lịch sử với loài người rồi, Ngài không hề bỏ rơi họ được. Ngài có ra đi là “để sửa soạn một chỗ cho họ” (Gio 14,28). “Thầy đi nhưng Thày sẽ ở lại với các con” (Gio 14,28), “Một ít nữa các con sẽ chẳng thấy Thầy, rồi một ít nữa các con lại thấy Thầy” (Gio 16,16), “Thày ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Những câu nói trên đây bộc lộ rõ ý định của đức Kitô là Ngài vừa đi vừa ở lại. Ngài tìm cách dung hòa hai việc có vẻ mâu thuẫn đó.
Chúa Kitô đã mấy lần nói trước việc Ngài ra đi từ biệt các môn đệ: “Thầy ra đi thì ích lợi hơn cho các con, vì Đấng phù trợ sẽ đến cùng các con” (c.7). Tuy nhiên nói tới chữ ra đi, chia ly, từ biệt… bao giờ cũng sậm buồn. Sự chia ly bao giờ cũng chết đi trong lòng một ít. Xưa rầy các tông đồ quây quần quanh Thầy mình, mọi sự có Ngài lo cho từ của ăn vật chất đến tinh thần. Giờ đây tới lúc họ ra đi như ăn riêng thì lại mất Thày. Cho nên trên phương diện nhân loại, họ buồn da diết. Nhưng trên phạm vi siêu nhiên thì thật là ích hơn cho họ.
Đang lúc buồn sầu, rồi nghĩ đến giây phút Thầy trò chia ly, lại nghe nói đến những sự bách hại mai ngày, các Tông đồ thêm chán nản. Chúa Giêsu thương hại, nhìn các ông và hứa sẽ sai Thánh Thần đến ủng hộ các ông. Vì Chúa Giêsu về trời là điều kiện phải có để Thánh Thần đến. Vì thế, bài Tin mừng hôm nay ghi lại lời Chúa Giêsu loan báo về việc Chúa Thánh Thần đến ở với các Tông đồ để an ủi, soi sáng và ban thần lực cho các ông.
Về phương diện tự nhiên ‘ra đi là chết trong lòng một ít’(tục ngữ Pháp). Cuộc ra đi nào ít nhiều cũng thế cả, buồn cho người ở cũng như người đi. Nhưng nếu sự ra đi ấy có ích và nhất là cần thiết thì Chúa Giêsu khuyên chúng ta chấp nhận sự ra đi đó. Đàng khác, có sống thì phải có chết, có đoàn tụ có ngày cũng chia ly, đó là quy luật của cuộc sống, chính Đức Giêsu cũng nếm cảm và kinh qua quy luật đó. Nhưng Chúa chết là để sống lại, ra đi là để đoàn tụ: “Thầy về cùng Cha, để Thầy ở đâu các con sẽ ở đó với Thầy”.
Hơn nữa, Ngài còn nói với các môn đệ: “Thầy ra đi thì có lợi cho các con, vì nếu Thầy không ra đi thì Đấng bảo trợ không đến với các con”, Đấng bảo trợ Chúa nói đây là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần đến soi sáng, trợ giúp và thúc đẩy các Tông đồ minh chứng về Đức Giêsu và tiếp tục sứ mạng của Ngài.
Động từ “ra đi” trong bản văn Tin mừng được nhắc đến nhiều lần, nhưng mang hai ý nghĩa khác nhau. Trước hết, “ra đi” là đi về cùng Chúa Cha; thứ đến, “ra đi” là không còn ở với các môn đệ một cách thể lý nữa. Có “ra đi” thì có trở về. Thầy Giêsu, sau cuộc Khổ nạn và Phục sinh, sẽ đến với các môn đệ, nhưng đó là sự hiện diện mới mẻ, thiêng liêng hơn, cũng thân mật hơn, thâm sâu hơn. Thầy sẽ gửi Thánh Thần đến dạy dỗ các môn đệ, cho các ông biết rằng từ nay Ba Ngôi Thiên Chúa sẽ đến, ngự trị nơi tâm hồn con người. Thánh Thần cũng sẽ đến làm chứng về Thầy Giêsu, soi sáng cho các môn đệ hiểu được những lời Thầy mình dạy ngày nào. Rốt cùng, đặt thế gian trước sự lựa chọn hoặc tin vào Chúa Giêsu để được cứu rỗi, hoặc cứng lòng ở lì trong tội lỗi.
Chúa Thánh Thần đến, Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm:
Chúa Thánh Thần đến sẽ làm chứng về Đức Giêsu là Đấng công chính, và như vậy Người cũng chứng thực về tội lỗi của những người từ chối và giết Đức Giêsu.
Chúa Thánh Thần cũng dùng những dấu lạ, để làm chứng về sự công chính của Đức Giêsu: là Đấng đã tử nạn, phục sinh và lên trời.
Chúa Thánh Thần cũng làm chứng cho sự thật là ma quỷ và tay sai sẽ bị xét xử và luận phạt, vì thập giá của Chúa Giêsu là nguồn ơn cứu độ.
Trong bài hát về Chúa Thánh Thần, có câu: “Thánh Thần khấn xin Ngài đến, hồn con đang mong chờ Ngài… Ngài ơi, xin Ngài mau đến chiếu sáng tối tăm u mê sai lầm, Ngài ơi, xin Ngài mau đến hiển linh Ngài ơi”. Lời khuyên thứ hai của bài Tin mừng hôm nay là chúng ta phải nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng thì mới thấy rõ và đúng những sai lầm của mình.
Ngày nay, qua tiếng nói lương tâm và nơi các dấu chỉ, Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động và thúc giục mỗi người biết làm lành lánh dữ. Tuy nhiên, vì còn mang nặng tính tự kiêu, ích kỷ và bảo thủ, nên nhiều khi chúng ta đã bỏ qua tiếng nói của lương tâm, không đón nhận Chúa Thánh Thần, vì lý do sợ chân lý, sợ sự thật. Như thế, đôi khi vẫn cứ đi sai đường trệch lối mà không biết, nhưng cũng không thiếu những lúc ta cố tình không chịu biến đổi, dẫu biết điều đó là không đúng, là sai.
Vì thế, việc hồi tâm là điều cần thiết. Bởi lẽ, trong thinh lặng nội tâm, Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta biết được đâu là điều tốt nên làm và đâu là điều xấu nên tránh.
Chúa Giêsu hứa ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Chúa Thánh Thần được gọi là Đấng Bảo Trợ sẽ giúp các môn đệ tin vào Chúa Giêsu là Đấng Chúa Cha sai đến để cứu độ.
2024
Thánh Thần Đấng Bảo Trợ
6.5Thứ Hai trong tuần thứ Sáu Mùa Phục Sinh
Cv 16:11-15; Tv 149:1-2,3-4,5-6,9; Ga 15,26-16,4
Thánh Thần Đấng Bảo Trợ
Người Do Thái coi Chúa Giêsu là một kẻ lộng ngôn phạm thượng và các Kitô hữu là những người phản bội Do Thái. Do đó họ giết Chúa Giêsu và bắt bớ các Kitô hữu. Chúa Giêsu đã báo trước điều đó cho các môn đệ biết: “Người ta sẽ loại bỏ các con ra khỏi hội đường. Đã đến giờ kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự Thiên Chúa.”
Nhưng đồng thời Chúa Giêsu chấn an họ: Chúa Cha sẽ sai Chúa Thánh Thần đến.
Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ: Ngài sẽ che chở và bênh vực các môn đệ trong cơn bắt bớ.
Ngài là Thần Chân Lý: Ngài sẽ soi sáng giúp các môn đệ làm chứng cho những người Do Thái biết Chúa Giêsu là Đấng làm theo đúng ý Chúa Cha.
“Đấng phù trợ” dịch từ chữ hy lạp Parakletos, chỉ một nhân vật thế giá đến đứng bên cạnh người bị cáo trong một phiên tòa. Khi nhân vật thế giá đến đứng bên cạnh người bị cáo thì tình hình đổi khác rất nhiều: đối với người bị cáo thì người này bớt sợ và an tâm hơn vì đã có người hỗ trợ tinh thần mình, đồng minh với mình, giúp mình biết trả lời sao cho khéo léo, và khi cần thì đích thân lên tiếng bênh vực mình. Đối với quan tòa thì sự hiện diện của Parakletos bên cạnh bị cáo cũng khiến họ phải nể nang hơn, xét xử khoan hồng hơn.
Thánh Kinh cũng dùng chữ này theo nghĩa rộng, vượt qua khỏi khung cảnh toà án, áp dụng cho nhiều hoàn cảnh khác trong cuộc đời. Thí dụ ngôn sứ Đanien Parakletos bà Susanna khi bà bị hai ông già dê âm mưu kết án oan; Chúa Giêsu là Parakletos của người phụ nữ ngoại tình khi chị bị lôi ra xử án ném đá vì phạm tội ngoại tình.
Còn trong Tin Mừng này, Chúa Giêsu dùng chữ Parakletos để chỉ Chúa Thánh Thần. Các môn đệ của Ngài sẽ bơ vơ giữa thế gian, như những con chiên giữa bầy sói dữ. Thế gian cũng sẽ thù ghét họ, gài bẫy hại họ, làm khó dễ họ, thậm chí còn bắt bớ họ. Nhưng thực ra các môn đệ không bơ vơ vì đã có Chúa Thánh Thần đứng bên cạnh để:
Hỗ trợ tinh thần khi họ cảm thấy cô đơn.
An ủi họ trong những lúc đau buồn.
Che chở họ trong những khi nguy hiểm.
Vạch cho họ thấy những cạm bẫy xảo quyệt mà thế gian giăng ra hại họ.
Dạy họ cách làm cách nói để khỏi bị thế gian bắt bẻ.
Đích thân bênh vực họ.
Và chúng ta đã thấy, Chúa Thánh Thần đã đóng vai Parakletos một cách hữu hiệu thế nào đối với các tông đồ khi các Ngài sống và hoạt động giữa thế gian.
Tin Mừng nhắc chúng ta nhớ đến một Đấng Parakletos mà chúng ta vẫn hằng có sát bên cạnh mình thế mà chúng ta thường quên, đó là Chúa Thánh Thần. Chúng ta quên Ngài đến nỗi nhiều khi chúng ta đọc hay hát kinh Chúa Thánh Thần mà vẫn không nghĩ tới Ngài. Và bởi vì quên Ngài, không nghĩ tới Ngài nên chúng ta thường bị rơi vào tình trạnh cô đơn, buồn chán, lo âu, sợ sệt, ngã lòng…
Chúng ta thấy, sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Hiện xuống, cuộc đời của các Tông đồ đã thay đổi toàn diện, từ những người chậm hiểu, hèn nhát, hám danh, ham sống sợ chết, Chúa Thánh Thần đã biến đổi các ông thành những chứng nhân nhiệt thành, tận tâm, can trường, coi thường gian nguy, không thể làm thinh không nói những điều đã nghe, đã biết. Mọi gian khổ, đe doạ, tù ngục, không làm cho các ông thoái lui; trái lại, hết mọi Tông đồ đều lấy máu đào làm chứng cho lời các ông truyền giảng và sẵn sàng chết, để tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô. Như vậy, muốn làm chứng về Đức Giêsu, phải có kinh nghiệm bản thân về Ngài, và dựa vào quyền năng của Thánh Thần.
Nói đến truyền giáo, chúng ta thường nghĩ đến các linh mục thừa sai đến rao giảng Tin mừng cho chúng ta. Nhưng sứ mạng truyền giáo bắt nguồn từ Chúa Cha khi sai Con Một Ngài là Chúa Giêsu loan báo cho nhân loại biết tình yêu Thiên Chúa dành cho họ, để “ai tin thì được cứu độ” (x. Ga 3, 36).
Để làm chứng cho Chúa Giêsu, chúng ta không nên chờ đợi sự dễ dàng, nhưng phải sẵn sàng mang lấy cuộc thương khó của Chúa Giêsu nơi thân mình, sẵn sàng đón nhận sự chống đối thù hận của những kẻ không biết Thiên Chúa Cha và cũng không biết Chúa Giêsu. Trong sự yếu đuối mỏng dòn của chính bản thân, chúng ta luôn cảm nghiệm sức mạnh của Thiên Chúa được thể hiện qua chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần hiện diện trong chúng ta. Chính Ngài làm chứng cho Chúa Giêsu và chúng ta cần để mình chìm sâu trong sức mạnh của Ngài, để cùng với Ngài làm chứng cho Chúa.
Kitô hữu là người được kêu gọi làm chứng cho Đức Kitô trước mặt mọi người trong mọi nơi mọi lúc. Chính Chúa Thánh Thần sẽ nâng đỡ và an ủi chúng ta trong sứ mạng làm chứng này.