2023
TỈNH THỨC
Ngày 3 tháng 12 Chúa Nhật
Chúa Nhật 1 Mùa Vọng. Tv tuần 1. Các bài đọc: Is 63,16b-17.19b; 64,2b-7; 1Cr 1,3-9; Mc 13,33-37.
TỈNH THỨC
Mùa vọng là mùa chờ đợi, điều này ai cũng biết. Nhưng chờ đợi ai, chờ đợi những gì và chờ đợi như thế nào, không phải ai cũng biết và thực hành. Các bài đọc Lời Chúa khởi đầu mùa vọng hôm nay sẽ gợi mở để giúp chúng ta thấu triệt những điều ấy.
Chờ đợi trong tỉnh thức và sẵn sàng là sứ điệp mà cả ba bài đọc trong phụng vụ hôm nay nhắn gửi đến chúng ta.
“Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức” (c.33a). Đây là lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng trong Mc 13, Chúa Giêsu kêu gọi bốn đồ đệ Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê phải coi chừng (cc.5.9.23.33). Lời mời gọi hãy biết nhận định rõ ràng và chính xác, là lời mời gọi xuyên suốt diễn từ cánh chung của Chúa Giêsu. Các môn đệ cần phải có cái nhìn sáng suốt về những gì xảy đến, để giải thích đúng đắn các thực tại và không bị lừa phỉnh (cc.5-23). Bây giờ, sau khi đã nói tất cả những điều đó và để kết thúc diễn từ cánh chung, Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Phải tính thức”. Chỉ trong một đoạn văn ngắn, có đến bốn lần Chúa nói: “Phải tỉnh thức” (cc.33.34.35.37), điều này cho thấy tính cách quan trọng của lời mời gọi.
Lý do đầu tiên được đưa ra để làm nền cho lời mời gọi quan trọng đó, chính là: “Vì anh em không biết khi nào thời ấy đến” (c.33b). Ngay trước câu này, Chúa đã khẳng định: “Còn về ngày hay giờ đó [cuộc quang lâm] thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (c.32). Áp dụng điều đó vào trường hợp các đồ đệ, Chúa Giêsu cho họ biết rằng họ không biết được khi nào xảy đến cuộc quang lâm (c.33), tức là khi nào Chủ của họ trở về (c.35), và Ngài nối kết sự không biết này vào với lời mời gọi tỉnh thức.
Sau khi nêu lý do, Chúa Giêsu kể cho các đồ đệ nghe một dụ ngôn: câu chuyện ông chủ đi xa. “Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức” (c.34). Người giữ cửa được nhấn mạnh cách đặc biệt vì hơn tất cả những người khác, nhiệm vụ canh thức của anh là rất rõ ràng.
Tình cảnh của các đồ đệ cũng tương tự như tình cảnh của những người đầy tớ của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn. Ông chủ đi xa và trao phó công việc cho họ; mỗi người có nhiệm vụ riêng của mình. Và bởi vì họ không biết khi nào ông quay về, nên họ phải luôn hiện hiện trong tư thế sẵn sàng. Cũng tương tự như thế, Chúa Giêsu chính là vị Chủ Nhà. Rời khỏi thế gian, Chúa Giêsu trao phó cơ nghiệp cứu độ của Người cho các đồ đệ. Trong Nhà của Chúa Giêsu, các đồ đệ, nhất là các vị lãnh đạo cộng đoàn Hội Thánh, vừa là gia nhân vừa là người giữ cửa. Mọi người đều phải tỉnh thức và sẵn sàng đón Người trở lại trong cuộc quang lâm của Người.
Sau khi kể câu chuyện dụ ngôn, Chúa Giêsu lặp lại lời kêu gọi tỉnh thức và nêu phần áp dụng của dụ ngôn đó và hoàn cảnh các đồ đệ: “Vậy anh em phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ” (cc.35-36).
Trong cuộc sống, chúng ta thường nói: Mấy ai học được chữ ngờ. Nghĩa là có nhiều biến cố xảy đến ngoài dự kiến của chúng ta. Nhưng có một cái bất ngờ, tuy không do chúng ta dự liệu, nhưng lại tuỳ thuộc chúng ta định đoạt số phận, đó là cái chết.
Qua báo chí, nghe truyền thanh và xem truyền hình, chúng ta thấy cái chết phảng phất ở mọi nơi, và trong mọi lúc. Nào là thiên tai bão lụt giết chết hàng trăm người. Nào là núi lửa, động đất giết chết hàng ngàn người. Nào là chiến tranh, đói khổ giết chết hàng vạn người. Dẫu vậy có ai nghĩ rằng mình cũng sẽ phải chết, mà mấy ai đã tỉnh thức và sẵn sàng cho cái bất ngờ cuối cùng ấy.
Sống sao thì chết vậy. Muốn được chết tốt lành, muốn cho giờ chết không phải là giờ cay đắng bẽ bàng thì ngay từ lúc này, chúng ta phải lo sống tốt lành. Đối với những người còn hồ nghi về đời sau, họ nên khôn ngoan lý luận như nhà tư tưởng Pascal: Có đời sau hay không, điều ấy thật khó mà chứng minh rõ rệt, tuy nhiên tôi vẫn tin có là hơn, vì dù không có, thì tin như vậy cũng không thiệt hại gì. Còn như trong trường hợp mà có, thì không tin quả là điều nguy hiểm. Cho nên tin vào sống niềm tin ấy, thì khôn ngoan hơn.
Tỉnh thức và sẵn sàng ở đây có nghĩa là hãy khử trừ tội lỗi ra khỏi cuộc sống và tích trữ cho một kho tàng quý giá là những hành động bác ái, là những công nghiệp chúng ta lập được khi còn sống ở đời này, để bất kỳ lúc nào Chúa lên tiếng kêu gọi, chúng ta cũng có thể sẵn sàng thưa lên: Lạy Chúa, này con xin đến.
Nếu không cảm nhận Chúa là lẽ sống, niềm vui, hay nguồn hy vọng của đời mình thì làm sao có thể nhớ thương và mong chờ cho đúng nghĩa được. Có ai trông đợi hay nôn nao được gặp lại một bóng hình mà họ không yêu thương cũng chẳng qúi mến chăng?
Thế cho nên sống mùa Vọng là tái xác định đối tượng chính trong cuộc đời. Khi mà tôi nhận thức Chúa chính là áng mây cho sa mạc tâm hồn, là dòng suối mát cho cánh đồng chờ nước bao năm, thì lúc ấy lời ca “Trời cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tội” sẽ thấm đến tận nơi sâu thẳm của cõi lòng.
Vậy lời kêu gọi “tỉnh thức” của ngày đầu năm phụng vụ không chỉ nhắc tôi về thái độ chờ đợi và sẵn sàng, nhưng còn ngầm bảo tôi hãy “thức tỉnh”: thức tỉnh lại từ những đam mê, trăn trở, gian nan để xem Chúa có ở trong đó không; thức tỉnh từ những kiếm tìm: tìm job, tìm của, tìm tình, tìm danh dự, tìm địa vị… để xem Chúa ở trong và ở trên tất cả những sự đó không. Vì nơi đâu không có Chúa, nơi đó chỉ là những quảng cáo của thế gian, ma qủi. Tìm mọi sự mà không tìm Chúa thì rồi vẫn cứ mãi thiếu vắng và khát khao. Phải chăng là vì “chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Thánh Augustinô).
2023
Tin và Tử đạo
19.11 Chúa Nhật thứ Ba Mươi-Ba Mùa Quanh Năm
Cn 31:10-13,19-20,30-31; Tv 128:1-2,3,4-515; Mt 25:14-30; Mt 25:14-15,19-21
Tin và Tử đạo
Mấy thế kỷ trước đây, trong thời gian các tín hữu Công giáo Việt Nam bị bách hại khốc liệt, nhà cầm quyền khuyến dụ các tín hữu bước qua thập giá như một dấu chỉ từ bỏ đạo Chúa. Tín hữu nào theo lệnh vua quan dẫm đạp lên thập giá được xem như là người công khai bỏ đạo.
Ngày nay, các ki-tô hữu không còn bị thúc ép dẫm lên thập tự giá như các tín hữu ngày xưa, nhưng vẫn còn nhiều áp lực thúc đẩy họ chà đạp lên tình người, mà ai chà đạp lên tình người thì kẻ ấy đã thực sự chối bỏ Đạo yêu thương của Chúa Giê-su.
Hôm nay là lễ kính trọng thể các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam. Hơn ai hết, các ngài đã hiểu rất rõ ràng các ngài hiện diện trên trái đất này chính là một đặc sủng, một quà tặng tuyệt đối vô song Thiên Chúa đã ban tặng, và khi đón nhận ơn gọi Ki-tô hữu chính là lúc các ngài được Người cấp vốn làm ăn. Người có thể gọi các ngài về bất cứ lúc nào để tính sổ coi các ngài đã sử dụng số vốn được trao ấy ra sao. Hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, các Thánh Tử Vì Đạo đã tuyệt đối tin tưởng, sống và hành động hết mình cho lý tưởng mình đã khám phá được với một ý chí sắt đá, dù cho còng trói tay, gươm kề cổ cũng không chùn bước, cuối cùng đã hy sinh cả mạng sống; đó là phẩm hạnh tuyệt hảo của các ngài. Và hôm nay chính là kỷ niệm ngày các ngài được chính thức “hưởng niềm vui của Chủ” nơi cõi phúc trường sinh.
117 vị thánh tử đạo Việt Nam, không phải là những bậc tài trí xuất chúng, cũng không phải là những người giàu sang phú quý, nhưng đều là những người bình thường trong xã hội, là những công dân tận tụy với chức vụ, trung thành với tổ quốc và nhân dân, nhưng đã phải chịu tử hình vì không chối bỏ đức tin: Thánh Phaolô Tống Viết Bường, chức Thị vệ, đã chịu trảm quyết ngay trước cổng nhà người con gái ngài, vào ngày 23/10/1883 tại Huế, triều vua Minh Mạng.Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, Câu phủ họ Đầu Nước, tỉnh Anh Giang, đã bị bắt và hy sinh vì Chúa tại Châu Đốc, ngày 31/7/1859. Thánh Anê Lê Thị Thành, một bà mẹ công giáo gương mẫu; vì sốt sắng giúp đỡ các linh mục trong buổi cấm đạo, nên đã bị bắt và chịu nhiều cực hình nên kiệt sức và chết rũ tù ngày 12/7/1841 v.v…Rồi có những giáo xứ ở Quảng Trị, bị lính lùa vào nhà thờ rồi chất rơm chung quanh đốt cháy tất cả. Các nữ tu dòng Mến Thánh Giá Phanrang bị vứt xuống giếng và lấp đất chôn sống…
Tin Chúa, theo Chúa là chấp nhận từ bỏ những gì không phù hợp, những gì cản lối chúng ta bước theo Chúa, cho dù đó là tình máu mủ ruột thịt, tiền bạc, địa vị của cải; khi phải chọn lựa giữa sống và chết vì Tin Mừng thì cũng dám chấp nhận. Đó cũng là đòi hỏi Chúa Giêsu đã công bố: Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống. Người nào được lời lãi cả thế gian mà đánh mất chính mình và phải thiệt thân thì nào có ích lợi gì. Ai xấu hổ vì tôi và Tin Mừng thì Con Người cũng xấu hổ vì kẻ ấy.
Đây là đòi hỏi quyết liệt và dứt khoát mà Chúa muốn những người theo Chúa phải chấp nhận. Trải qua dòng thời gian, đã có hàng hàng lớp lớp những con người nhận ra giá trị cao quý của lời mời gọi này. Họ đã đáp lại bằng cả cuộc đời và đánh đổi bằng mạng sống mình để đạt được Nước Trời và giữ được mạng sống cho cuộc sống đời đời. Tổ tiên chúng ta, các anh hùng tử đạo Việt Nam, mặc dù mới biết Chúa tin Chúa, nhưng cũng đã dám từ bỏ tất cả vinh quang lợi lộc trần thế, vác thập giá đời mình bước theo Chúa Giêsu. Các ngài đã dám đánh đổi cả gia đình, sự nghiệp, hạnh phúc ở đời này và mạng sống để mong đạt được hạnh phúc đời đời. Sự can đảm và cái chết anh dũng của các ngài là một lời tuyên xưng mạnh mẽ vào Chúa Giêsu và thập giá của Ngài, là tấm gương cho các thế hệ con cháu và cũng là tấm gương đánh động tâm hồn những người dân ngoại.
Từ chối bước qua thánh giá, từ chối những lời mời gọi hứa hẹn hấp dẫn, từ chối địa vị danh vọng… đó là tấm gương cha ông, các vị tử đạo Việt Nam, đã để lại cho chúng ta. Ngày nay, chúng ta không bị ép bước qua thánh giá, nhưng nhiều người đã nhắm mắt tự nguyện để đạp lên Tin Mừng và lề luật của Chúa. Những người này bỏ ngoài tai những lời nhắc nhở của Chúa và Tin Mừng, họ sống mà không dám thể hiện mình là người Kitô hữu. Nhiều tín hữa đã không dám từ chối những cám dỗ, mời chào và sự hứa hẹn của thế gian; họ nhắm mắt chạy theo danh lợi, địa vị; họ gạt Chúa và Tin Mừng qua một bên.
Mừng lễ các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam, người Ki-tô hữu phải để ý đến nét Việt Nam nơi các ngài, tức là phải noi gương các ngài trong đời sống xã hội phục vụ anh em đồng bào. Nói cách cụ thể, thì người có đức tin phải luôn duy trì và phát triển động lực thúc đẩy (tức là Thần Khí Ðức Ki-tô ở trong bản thân mình) để sống đời sống chứng tá ngay trong môi trường xã hội nơi mình cư ngụ. Để được như vậy, cần phải mang sự chết của Người trong thân xác, là biết chết cho bản thân và các khuynh hướng vị kỷ.
Nhờ lời chuyển cầu của Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Xin Chúa thương giúp chúng ta học và noi gương các ngài trong sứ vụ chứng nhân mà Chúa đã ban tặng nhưng không cho chúng ta.
2023
Khôn ngoan và tỉnh thức
12.11Chúa Nhật thứ Ba Mươi-Hai Mùa Quanh Năm
Kn 6:12-16; Tv 63:2,3-4,5-6,7-814; Tv 63:13-14; Mt 25:1-13
Khôn ngoan và tỉnh thức
Tin mừng hôm nay giống như bao dụ ngôn khác là một bài Tin Mừng phức tạp trong chính ý nghĩa của nó. Khi chúng ta tiến gần tới cuối năm phụng vụ, sẽ kết thúc trong hai tuần tới, giải thích theo phụng vụ thì bài Phúc Âm là tận cùng của thời gian khi Đức Kitô sẽ đến một lần nữa trong vinh quang. Ngày đó không ai biết. Mọi thế hệ khôn ngoan của Kitô giáo, thánh Phaolô đã viết trong thư gởi tín hữu thành Thessalonica, đã giới thiệu một sự chờ đợi cuộc trở lại của Chúa Giêsu cách kiên nhẫn. Chính chúng ta trong mọi Thánh Lễ tuyên xưng sau kinh Lạy Cha rằng, chúng ta chờ đợi trong niềm hy vọng vui mừng “việc đến của Đấng cứu độ chúng ta là Đức Giêsu Kitô”.
Dụ ngôn mười người trinh nữ mặc dầu rất phổ biến cũng là một trong những dụ ngôn khơi dậy nhiều biện giải thông thái nhất. Ở đây chúng ta giới hạn vào cách giải thích và vào một trong những suy tư rút từ truyền thống sống động của Giáo hội. Có phải Chúa dùng một việc thông thường làm căn bản cho dụ ngôn của Ngài hay không, một lễ cưới người ta có thể thấy luôn?
Ta thấy đúng, nhưng Ngài sắp đặt lại theo cách riêng để làm nổi bật điểm chính xác trong giáo huấn của Ngài: Mọi chi tiết trong dụ ngôn không tương ứng hẳn với cách cử hành các lễ người ta có thể thấy được, nhưng chúng được xếp đặt sao cho nổi bật sự cần thiết phải sẵn sàng để gặp gỡ Thiên Chúa. Bổn phận phải sẵn sàng có ý nghĩa gì và hậu quả ra sao?
Sẵn sàng có nghĩa là đã chuẩn bị đầy đủ. Nên lưu ý dụ ngôn không trách các cô đã ngủ, nhưng trách các cô đã không dự trù số dầu cho đủ. Các cô đã không chuẩn bị kỹ để ứng phó với tình thế. Áp dụng cho cuộc sống Kitô hữu, có thể nói việc chờ đợi Thiên Chúa (trong các ân huệ hàng ngày, hay khi Ngài đến ngày lâm tử) không đi đôi với sự chểnh mảng, nửa vời, đãng trí. Thiên Chúa luôn nhập bất thần vào cuộc đời chúng ta. Ngài đòi hỏi chúng ta phải giữ lòng ngay luôn sẵn sàng tiếp đón Ngài. Người ta sẽ thiệt hại rất nhiều nếu thiếp ngủ quên đi 1 thiếu sót về bác ái, một lầm lỗi của lương tâm, một khiếm khuyết trung thành. Cụ thể điều này kêu gọi chúng ta hãy sống mỗi giây phút cuộc đời với quyết tâm hết sức chu toàn tất cả bổn phận.
Sẵn sàng có nghĩa là lãnh trách nhiệm lo toan chứ không cậy dựa vào kẻ khác. Các cô khờ dại chắc có lẽ đã nghĩ, nếu thiếu dầu sẽ nhờ bạn các giúp. Trên bình diện Giáo hội, chúng ta phải giúp đỡ lẫn nhau, vì tình liên đới nối kết chúng ta. Nhưng có một mức độ cá nhân ở đó chúng ta là những kẻ duy nhất mang trách nhiệm về mình. Không ai có thể sớt cho chúng ta đức tin, đức cậy và đức mến mà chúng ta đã lơ là như các cô khôn ngoan ở vào hoàn cảnh không thể chia số dầu đem theo, không ai ở trong Giáo hội có thể san sẻ tương quan cá nhân riêng với Thiên Chúa. Sự trung thành của chúng ta đối với Thiên Chúa có thể được nâng đỡ nhiều trong việc các thánh thông công, nhưng các thánh không thể bổ khuyết trách nhiệm riêng của chúng ta.
Hậu quả những cố gắng trung thành của chúng ta rất lớn lao. Câu kết luận dụ ngôn thật đáng sợ: thật Ta nói cho các ngươi hay, Ta không biết các ngươi. Người ta vui mừng vì các trinh nữ sẵn sàng được vào phòng tiệc bao nhiêu, người ta lại sợ vì các cô đến chậm bị loại bấy nhiêu. Như thế có một cái “quá trễ” đè nặng trên định mệnh nhân loại. Nó nằm ở chỗ nào? Đây là một mầu nhiệm bất khả thấu. Chúng ta biết lòng nhân lành Chúa khôn cùng và dung thứ tự do nhân loại đến những giai đoạn cuối tận, nhưng có một lúc mọi sự đều chấm dứt. Chuẩn bị cho giờ phút mà chúng ta không biết, chúng ta cần sắp đặt sẵn sàng để đón tiếp Thiên Chúa tức thời, nếu Ngài đến tức thời và để chờ đợi Ngài nếu Ngài để chúng ta chờ đợi. Thiên Chúa đóng cửa không nhận con người sau những thiếu sót có hiểu biết và cố ý nào, chúng ta không cần phải tưởng tượng ra. Nhưng sự thực phải khiến chúng ta suy nghĩ. Điều ấy có thực.
Cuộc đời người tín hữu Kitô lúc nào cũng phải được xem là ngày hôm nay, luôn sẵn sàng chờ chàng rể đến, để vào dự tiệc cưới Nước Trời. Thế nào là người tín hữu luôn sẵn sàng? Tin Mừng hôm nay chỉ rõ: “Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo”. Cốt lõi vấn đề là ở chỗ đó. Các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo, nên các cô sẽ mãi mãi là người đến sau, mãi mãi phải đứng bên ngoài, suốt đời hối tiếc. Vì ngày hôm qua đã đi xa rồi!
Trái lại, các cô khôn vừa mang đèn vừa mang theo chai dầu. Đèn chính là ánh sáng đức tin luôn chiếu tỏa từ ngày chịu phép rửa tội. Đã có đèn thì phải có dầu; đã thắp đèn thì phải hao dầu, hao dầu thì phải châm thêm mỗi ngày. Dầu ấy chính là dầu bác ái yêu thương. Chỉ có dầu tình yêu mới thắp sáng được cây đèn đức tin của người tín hữu. Thánh Gioan viết: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”.
Ai vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo người đó được kể là người sẵn sàng và là thực khách danh dự của tiệc cưới Nước Trời. Thánh Matthêu ghi rõ: “Những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới”. Vì thế, những người luôn sẵn sàng là những con người của ngày hôm nay, không hối tiếc cho ngày hôm qua đã đi xa rồi, cũng chẳng lo lắng cho ngày mai chưa tới, nhưng chỉ tỉnh thức trong ngày hôm nay cho đèn luôn cháy sáng, cho dầu vơi lại đầy.
2023
Nói và làm
5.11 Chúa Nhật thứ Ba Mươi-Nhất Mùa Quanh Năm
St 1:142; Tv 131:1,2,312; Mt 23:1-12
Nói và làm
Người ta thường hay nói, khoảng cách xa nhất là khoảng cách từ lời nói đến việc làm. Đúng như thế, trong thực tế, những lời tuyên bố hoặc những đề nghị góp ý dạy bảo người khác thì vẩn dễ hơn khi chính mình thực hiện những điều đó, chẳng hạn khi tranh cử tổng thống hay những địa vị xã hội, thường các ứng viên cũng hay tuyên bố rất nhiều, nếu đắc cử tôi sẽ cải cách điều này, chấn chỉnh điều kia,.. thế nhưng khi đã đắc cử thường không mấy khi họ nhớ đến những lời hứa trước đây, hoặc những lời khuyên lời góp ý cho người khác thì dễ hơn khi mình thực hành, và chúng ta cũng thấy có những khoảng cách rất khác biệt giữa lời nói và việc làm của người này người khác, kể cả của linh mục và tu sĩ.
Lời Chúa hôm nay chủ yếu nhắm vào các tư tế bất trung, những nhà lãnh đạo tôn giáo bất xứng. Là sứ giả của Thiên Chúa, họ có trách nhiệm chuyển thông Lời Chúa và thánh ý của ngài một cách trọn vẹn. Đồng thời, họ phải cố gắng sống đúng điều mình rao giảng, làm gương mẫu cho người khác. Thiếu trách nhiệm trong giáo huấn hay trong cách sống, họ làm cho người khác lầm lạc, thay vì đi đúng đường; họ dẫn đưa người khác đến sự xấu, thay vì phải xa tránh tội lỗi. Và như thế, họ sẽ phải trả lẽ trước mặt Chúa, và sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc. Cũng trong chiều hướng đó, Chúa Giêsu đã cảnh giác dân chúng về cách sống của các luật sĩ và biệt phái, là những người chỉ nói mà không làm; đặt những gánh nặng lên vai người khác, còn họ thì không hề đụng tới; họ thích khoe khoang, hay làm nổi, cho người khác để ý; họ kiêu ngạo, muốn dùng tôn giáo để thống trị, áp bức người khác.
Đó là những tư tế biến chất ngày xưa. Ngày nay, trong Giáo Hội, có khi chúng ta gặp những mục tử cũng rơi vào những khuyết điểm như thế. Trong trường hợp đó, chúng ta phải có thái độ nào ?-
Trước hết, theo lời Chúa Giêsu, chúng ta đừng noi theo hành vi của họ, nhưng hãy làm và tuân giữ những điều họ giảng dạy. Bởi vì đó là Lời Chúa; đó là thánh ý Chúa. Thiên Chúa thì cao trọng hơn các thừa tác viên của ngài. Các thừa tác viên có thể không tốt, nhưng thánh ý Chúa thì luôn luôn tốt đẹp, cao quí. Khi công bố, rao giảng, thừa tác viên công bố, rao giảng Lời của Chúa. Khi dâng lễ, cầu nguyện, linh mục đều kết thúc: chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con.. Như thế, rõ ràng là, không phải nhân danh chính mình mà linh mục rao giảng, hay cầu nguyện. Giá trị của lời rao giảng, hay lời cầu nguyện vì thế không hoàn toàn tùy thuộc vào giá trị bản thân của linh mục. Do đó, hạnh kiểm không tốt của các vị ấy không phải là cái cớ để chúng ta từ chối giáo huấn của Chúa. Là những người được rao giảng Tin Mừng, chúng ta sẽ chịu trách nhiệm về sự đón nhận của chính chúng ta.
Đồng thời, cũng nên nhớ rằng, các vị ấy cũng là con người, cũng có những yếu đuối của thân phận con người như chúng ta. Bởi vì, đã là con người, thì không ai là hoàn toàn. Do đó cần phải thông cảm. Hơn nữa, đó là những ân nhân quí báu của chúng ta. Dù chưa hoàn hảo, nhưng Chúa đã dùng các vị ấy như những cộng tác viên cần thiết, như những dụng cụ không thể thiếu, để chuyển thông ơn thánh cho chúng ta, nhất là qua các bí tích. Cũng đừng quên rằng, các vị ấy đã dâng hiến trọn đời mình, đã từ bỏ gia đình, quê hương, xứ sở, đến sống và làm việc với chúng ta, có khi chết giữa chúng ta, để giúp đỡ, làm ơn cho chúng ta. Vì thế, lòng yêu mến, biết ơn đòi chúng ta phải nhiệt tình nâng đỡ các vị ấy, cả tinh thần lẫn vật chất, trong việc chu toàn sứ mạng được trao ban. Những ý kiến xây dựng, những lời động viên, khuyến khích, sự thông cảm, cộng tác tích cực… đôi khi còn cần hơn cả khí trời hô hấp. Bởi vì biết đâu vì sự thiếu nâng đỡ và lời cầu nguyện của chúng ta mà các vị ấy đã không sống đúng với sứ mạng được trao phó.
Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là, những lời cảnh giác trên đây cũng liên hệ đến mỗi người chúng ta. Là kitô hữu, nhưng thử hỏi có ai dám tự hào là đã luôn sống hoàn toàn theo lời Chúa dạy. Biết bao lần, chúng ta đã nói rất hay mà không làm. Biết bao nhiêu lần, lời nói và hành động không đi đôi với nhau. Biết bao nhiêu lần chúng ta tỏ ra độc đoán, kiêu ngạo, cho mình luôn luôn có lý, luôn luôn nắm chắc chân lý, và bắt người khác phải theo quan điểm riêng tư của mình. Và chúng ta cũng thích làm nổi, cho người khác để ý qua qua cung cách xử thế, qua y phục, liên hệ, tiếp xúc.. của chúng ta.
Thực tế, những người này họ giữ luật không phải vì Chúa mà chỉ là cái vỏ bên ngoài che đậy những cái xấu xa bên trong, họ để ý đến chỗ nhất chỗ nhì ở nơi công cộng, nơi hội đường hơn là việc thờ phượng Thiên Chúa, họ tìm kiếm không phải là ý Chúa, mà là lời khen ngợi từ nơi người khác. Sâu xa hơn nữa, như lời tiên tri Malakhi, họ đã đi trệch đường và lôi kéo nhiều người đi theo họ, họ trở thành gương mù gương xấu cho biết bao nhiêu người trong đời sống đạo. Đáng lẽ những bậc thày trong dân họ sẽ phải là những người trước tiên tôn vinh danh Chúa qua đời sống của họ, trở thành gương sáng cho những người khác trong việc tuân giữ giới răn lệnh truyền của Chúa, nhưng rất tiếc họ đã không chu toàn việc bổn phận ấy nên họ đáng bị Thiên Chúa nguyền rủa.
Chúng ta hãy nhìn lại chính mình. Hãy cố gắng điều chỉnh nếp sống của mình. Hãy giúp chính mình và anh em chung quanh, kể cả những vị lãnh đạo tinh thần của mình, luôn sống tốt hơn, đẹp hơn theo giáo huấn của Chúa bằng một đời sống huynh đệ, đơn sơ và phục vụ.
Lời Chúa hôm nay cũng là lời nhắc nhở cho những người có trách nhiệm trong cộng đoàn giáo xứ, cần phải trở thành những người đi đầu và làm gương sáng trong việc sống đức tin và thực hành những lời dạy của Chúa qua đời sống cá nhân và gia đình của họ, vì đời sống của những người này đang ảnh hưởng trên người khác.
Để có thể giới thiệu Chúa cho người xung quanh, thì người Công giáo chúng ta, trước khi giảng dạy, nói về Chúa cho họ thì hãy bắt đầu bằng những việc làm bác ái yêu thương cụ thề, bằng những cử chỉ đẹp đối với nhau, bằng sự quảng đại và thông cảm với nhau, vì nếu ngay những người đồng đạo, cùng một niềm tin mà chúng ta không yêu thương phục vụ nhau được, thì là sao người ngoại có thể tin rằng chúng ta có thể yêu thương và phục vụ người khác một cách thật lòng được, và càng không thể tin vào Đấng mà chúng ta tôn thờ và rao giảng.
Xin Cho mỗi người chúng ta biết khiêm nhường nhìn lại chính mình để sửa đổi cho phù hợp với lời Chúa dạy hôm nay.