2022
Chân lý sẽ giải thoát chúng ta
CHÂN LÝ SẼ GIẢI THOÁT CHÚNG TA
(Bài phát biểu đầu năm học 2022-2003, Đại Chủng Viện Thánh Phanxicô Xaviê)
Năm nay, Ban Đào tạo chọn câu “Sự thật sẽ giải thoát anh em” (Ga 8,32) làm châm ngôn sống trong bối cảnh sự giả dối lên ngôi trên mạng, ngoài xã hội và trong lòng người. Chúng ta sẽ khai triển chủ đề này xuyên suốt năm học dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong khuôn khổ ở đây, xin được gợi ý một vài suy tư về châm ngôn liên quan đến nhận thức luận và việc đào tạo linh mục.
Từ những ngụ ngôn
Trong tác phẩm “Cộng Hoà”, Platon có một ngụ ngôn nổi tiếng nhất trong triết học: “The Allegory of the Cave – Ngụ ngôn về cái hang”. Trong đó, có nhiều người sống với nhau và họ không biết gì về thế giới bên ngoài. Họ bị xiềng chân và cổ, nên chỉ có thể nhìn thấy bóng và nghe tiếng con người bên ngoài dội lại từ bức tường. Họ cho rằng những cái bóng đó là thực tại. Cho đến một ngày, có một người đã ra khỏi hang. Lần đầu tiên, anh nhìn thấy trực tiếp vẻ đẹp của vạn vật trong hình dạng đích thực của chúng. Vì lòng trắc ẩn, anh quay trở lại hang động để giúp các bạn mình ra khỏi sai lầm và ngộ nhận. Nhưng họ lại châm chọc anh, rồi nổi giận và cuối cùng âm mưu giết chết anh.
Theo Platon, dân cư trong hang là loài người trước khi biết đến triết học. Chúng ta ít nhiều đều sống trong bóng tối sai lầm, ngộ nhận về chính mình và thế giới. Cuộc sống có nhiều những thứ phù phiếm như những bóng ma, những giá trị ảo mà con người lại theo đuổi, chứ không phải là chân lý khách quan và giá trị thật.
Ở Đông Phương, chúng ta cũng có một ngụ ngôn không kém phần thâm thuý như thế, đó là chuyện “Thầy bói xem voi.” Truyện kể về 5 ông thầy bói rủ nhau xem con voi có hình thù như thế nào. Mỗi ông xem một bộ phận. Ông xem vòi thì bảo con voi sun sun như con đỉa, ông xem ngà bảo con voi giống như cái đòn càn, ông xem tai thì bảo nó giống như cái quạt thóc, ông xem chân bảo nó sừng sững như cái cột đình, còn ông xem đuôi thì bảo nó tun tủn như cái chổi sề cùn. Năm ông cãi nhau, không ông nào chịu nhường ông nào, cuối cùng đánh nhau toạc đầu, chảy máu. Cả năm ông đều sai nhưng lại cho mình là đúng và bác bỏ ý kiến của người khác. Đó chính là thái độ chủ quan, phiến diện và sai lầm trong nhận thức.
Cả hai câu chuyện giúp ta rút ra bài học là: sự vật, hiện tượng bao gồm nhiều mặt, nhiều khía cạnh khác nhau. Nếu chỉ mới biết một khía cạnh mà đã cho rằng đó là toàn bộ sự vật thì sẽ là sai lầm lớn. Muốn kết luận về một sự vật, thì phải nhìn tổng thể, toàn diện và cần phải lắng nghe ý kiến của người khác, kết hợp với phân tích, đánh giá, tổng hợp để có cái nhìn chính xác và đầy đủ nhất về chân lý.
Vậy chân lý là gì?
Theo Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, đây là một câu hỏi quan trọng, trong đó xoay quanh số phận của cả nhân loại. Chúng ta có thể nhận ra chân lý hay không? Chân lý có thể trở thành tiêu chuẩn cho suy tư và ý chí của chúng ta hay không, dù đó là cá nhân hay trong đời sống xã hội? Đức Bênêđictô XVI than phiền rằng “ngày nay chỉ có chân lý chức năng (functional truth) về con người là được quan tâm và khám phá (như mã di truyền chẳng hạn). Còn chân lý về chính con người: Con người là ai? Từ đâu tới? Điều gì đúng, điều gì sai, thì con người thường tránh né, không muốn giáp mặt như chân lý chức năng.”
Về phương diện nhận thức luận, Thánh Tôma Aquinô có một định nghĩa trở thành quy chuẩn kinh điển từ xưa tới nay: “Chân lý là sự tương hợp giữa hiểu biết và thực tại – adaequatio intellectus et rei.”[1] Nếu lý trí con người phản ánh một sự vật đúng như nó là, lúc ấy con người tìm được chân lý. Nếu chỉ có một phần điều hiện hữu thật sự – thì không phải là chân lý tròn đầy và trọn vẹn.[2] Bởi thế, người ta thường nói: Nửa cái bánh mỳ vẫn là bánh mỳ, nhưng nửa sự thật thì không phải là sự thật.
Một xác quyết khác của Thánh Tôma có thể giúp chúng ta tiếp cận ý hướng mạc khải của Chúa Giêsu: “Chân lý trong lý trí của Thiên Chúa mang ý nghĩa đích thực và tiên khởi; còn chân lý trong lý trí con người cũng đích thực nhưng thứ yếu. Từ đó giúp chúng ta đi đến công thức cuối cùng: Thiên Chúa là “ipsa summa et prima veritas – là chân lý tối thượng và đầu tiên.”[3]
Nhưng chưa dừng ở đó, Kitô giáo mang đến một sự mới mẻ về phạm trù chân lý. Theo đó, chân lý không chỉ là một ý tưởng, nhưng là một Con Người. Đó là sự mới mẻ đến mức không thể tin nổi, nên dù có đối diện với Chân Lý ấy, Philato vẫn thắc mắc: “Chân lý là gì?” (Ga 18,38). Chân lý ấy là Con Thiên Chúa, nhập thể làm người trong Đức Giêsu Kitô thành Nadarét. Người “là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Người là Chân Lý toàn vẹn về Thiên Chúa và về con người. Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn mạc khải: Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần, “Người sẽ dẫn anh em tới Chân Lý toàn vẹn” (Ga 16,13). Vì thế, Đức Bênêđictô XVI khẳng định: “Thiên Chúa đã đi vào thế gian và đã thiết lập tiêu chuẩn chân lý giữa dòng lịch sử”, “nếu con người sống mà không có chân lý thì cuộc sống sẽ trôi dạt và cuối cùng chân lý sẽ thuộc về những ai mạnh thế hơn.”[4] Đồng thời, ngài lên án thuyết duy tương đối (relativisme) đang thống trị não trạng con người thời nay như một thứ độc tài mới mà nhiều người hôm nay chủ trương khi cho rằng, mọi chân lý đều là tương đối, và cũng chẳng có chuẩn mực khách quan nào cả về chân lý. Đức Bênêđictô XVI nói rõ hơn: “Ngày nay, có một lực cản đặc biệt đáng ngại trong việc giáo dục, đó là sự hiện diện rộng khắp của chủ nghĩa tương đối trong xã hội và văn hóa. Chủ nghĩa này không nhìn nhận điều gì là vững vàng, cuối cùng tiêu chuẩn tối thượng duy nhất là cái tôi và những ước muốn của nó. Và ẩn dưới dáng vẻ của tự do, nó lại biến thành ngục tù cho mỗi người vì nó ngăn cách con người với nhau, khóa chặt mỗi người trong cái tôi ích kỷ của mình.”[5]
Sự thật sẽ giải thoát anh em!
Dưới ánh sáng ấy, châm ngôn “Sự thật sẽ giải thoát anh em” áp dụng trong việc đào tạo linh mục.
Thật vậy, việc huấn luyện linh mục là một quá trình với hai giai đoạn Triết – Thần nhằm giúp ứng sinh khám phá chân lý toàn diện, khách quan và đầy đủ nhất về Thiên Chúa, con người và thế giới. Theo Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong Thông điệp Veritatis Spendor: “Sự thật soi sáng trí khôn và định hình tự do của con người, dẫn họ đến chỗ nhận biết và yêu mến Chúa.”
Bởi vì Chúa Giêsu Kitô vừa là Chân Lý, vừa là quy chuẩn khách quan của Chân Lý, là mô mẫu lý tưởng của con người, đó là lý do tại sao Ratio của Bộ Giáo Sỹ (2016) trình bày công cuộc đào tạo linh mục trải qua từng giai đoạn tiệm tiến: Giai đoạn triết học là đào tạo ứng sinh trở thành người môn đệ Chúa Kitô qua việc ở với, bước theo Chúa Kitô (Sequela Christi). Giai đoạn thần học đào tạo ứng sinh đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, là Mục Tử và Tôi Tớ, để có thể yêu mến Chúa trên hết mọi sự và dâng hiến đời mình cho tha nhân.
Đào tạo tri thức là giúp các chủng sinh thoát khỏi lối tư duy sai lạc, chủ quan, giảm thiểu, phiến diện và tiêu cực, nhưng càng ngày càng đạt tới khả năng phán đoán và nhận thức thực tại một cách đúng đắn, khách quan, toàn diện và tích cực hơn. Đặc biệt nhờ việc nghiên cứu triết – thần kết hợp với kinh nghiệm thiêng liêng, các chủng sinh được trưởng thành về mặt nhận thức luận để họ “biết và hiểu cơ cấu nội tại của đức tin trong toàn thể, để đức tin trở thành câu trả lời cho những thắc mắc của con người hôm nay.”[6]
Hoán cải trí tuệ
Trước hết, chúng ta cần nhớ rằng, một đàng, con người có khả năng nhận biết chân lý. Đây là phẩm giá cao quý nhất mà Thiên Chúa phú bẩm cho con người. Lý trí là đặc điểm phân biệt con người với con vật. Nhưng đàng khác, con người có thể sai lầm trong việc nhận thức. Phải thành thật khiêm tốn mà nhận rằng, chúng ta thường chỉ là những người “còn ở trong hang động”, chỉ là “thầy bói xem voi.” Bởi lẽ, thực tại được nhận thức qua khả năng, lăng kính và thái độ của mỗi người. Nên nó được dội lại và phản ánh theo “thế giới nhận thức, cảm xúc và thái độ đón nhận ấy của tôi.” Ta gọi đó là “trí tuệ cảm xúc.” Khi ta thích, ta yêu, mọi sự ta cho là tốt. Khi ta không thích, mọi sự là xấu. Nên sự thật có thể bị bóp méo, bị uốn cong hay giảm thiểu theo ý riêng của từng người. Đó là hiện tượng thiếu “lương thiện” trong nhận thức. Bởi thế, nhà thần học Bernard Lonergan nói đến việc “hoán cải về trí tuệ – the intellectual conversion,” nghĩa là phải luôn đổi mới tận căn tư duy, nếp nghĩ của bản thân, để luôn biết mở ra với chân lý khách quan tự thân (important in se) và giá trị đích thật, hơn là chỉ dựa theo những gì là “quan trọng đối với tôi” (important for me) hay dựa theo tiêu chuẩn “mình thích.” Hoa quả của cuộc hoán cải này là “đạt tới thái độ đúng đắn và lượng giá một cách khách quan, chính xác các sự việc trong cuộc sống.”
Để đổi mới tư duy, ở đây, chúng ta cần phân biệt các loại tư duy:
1) Tư duy không tư duy, nghĩa là người có não mà không suy tư, không chính kiến, chỉ dựa vào tư duy người khác. Người ta nghĩ sao mình nghĩ vậy.
2) Tư duy kinh nghiệm, nghĩa là người tư duy, tìm được nguyên lý nhờ trải qua những kinh nghiệm cuộc sống. Tư duy kinh nghiệm có giá trị của nó nhưng trước những biến mới thì kinh nghiệm không giúp được nhiều, vì chưa trải qua, nên tư duy kinh nghiệm thôi chưa đủ.
3) Tư duy khoa học là tư duy có sự chính xác, khách quan và tính chuyên môn cao nhờ nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi.
4) Tư duy độc đáo là tư duy dựa trên logic khoa học và sự sáng tạo của bản thân. Người nắm nguyên lý khoa học và biết áp dụng vào cuộc sống với sự sáng tạo của mình, tạo nên sự mới mẻ, đột phá, độc lập và khác biệt. Nếu muốn tạo sự khác biệt mà không có tư duy khoa học, không nắm nguyên lý, sẽ trở nên dị biệt. Xu thế thời đại hôm nay đề cao lối tư duy độc đáo này. Người Nhật nói rằng: “Khác biệt hay là chết.” Bởi thế, người ta buộc phải thay đổi liên tục về tư duy, ý tưởng, sản phẩm và lối tiếp cận…
Và nhận ra sự thật bản thân
Thứ đến, châm ngôn “Sự thật sẽ giải thoát anh em” cũng giúp chúng ta khám phá sự thật bản thân để được tự do.
Thật vậy, mỗi ứng sinh là huyền nhiệm đối với chính mình. Hành trình huấn luyện được bắt đầu từ khi ứng sinh biết khám phá sự thật về chính mình. Một đàng, mỗi người được sáng tạo và phú bẩm với rất nhiều khả năng và tiềm năng cần phát triển. Đàng khác, con người là giới hạn, bất nhất và mù loà về chính mình cần khám phá để đổi thay. “Errare humanum est!”
Đào tạo là giúp ứng sinh khám phá, đưa ra ánh sáng sự thật về chính mình, biết mình mỗi ngày một hơn: từ hành vi, thái độ, tình cảm, khuynh hướng, khả năng, tiềm năng, tính tình, nhu cầu, động lực bên trong, những giới hạn, sự bất nhất và những xung đột, những vùng mù tối bên trong. Nhờ ánh sáng của Lời Chúa và tác động của Chúa Thánh Thần cùng với sự trợ giúp của các nhà đào tạo, các chủng sinh đưa ra ánh sáng sự thật về mình, nhận diện sự thật ấy để được uốn nắn và biến đổi bản thân.
Theo Cha Cencini, biết mình một cách chân thành thôi thì chưa đủ, mà còn phải biết mình một cách chính xác, khách quan và toàn diện, không trốn tránh, không giả vờ, không phỏng chiếu, không đeo mặt nạ với mình. Chỉ có khi nào ta ở trong sự thật, ta mới có thể thực hiện cuộc hành trình huấn luyện.
Theo Cha James E. Sullivan trong cuốn “Hành Trình Tự Do”,[7] ta không được tự do bởi vì nhiều chứng ngoại vật bên trong và bên ngoài như cơ chế tự vệ, lăng kính nhận thức và cảm xúc của ta… Chúng giam hãm ta trong sự sai lầm, định kiến và nô lệ. Nếu ta có nhận ra sự thật về chính mình, thì chẳng qua chỉ là những ‘thứ tạp nham về mình,” là những biến dạng được tạo ra do hệ thống nhận thức và những lăng kính lệch lạc ấy của mình. Nên ta thường sợ đối diện với sự thật về chính mình. Vì sự thật thì trần trụi. Sự thật thì mất lòng. Sự thật có thể gây tổn thương. Câu chuyện nguyên tổ loài người sa ngã diễn tả điều đó: Ađam và Evà sau khi khi phạm tội, khám phá ra mình trần trụi và trống rỗng trước nhan Thiên Chúa, nên họ tìm cách chạy trốn chính mình, đổ lỗi cho người khác và lấy lá để che thân (x. St 3,1-14). Đó là thái độ trốn tránh tiêu biểu của con người mọi thời khi đối diện với sự thật.
Nhưng để có sự trưởng thành và tự do đích thực, ta phải tìm cách loại bỏ những lăng kính, định kiến và sự cố thủ riêng, và hãy buông mình cho Chúa Thánh Thần. Bấy giờ, ta có thể nhận biết con người và sự vật đúng theo thực chất của con người và sự vật ấy, và chỉ lúc đó, sự thật dẫn đưa ta tới tự do. Vậy, hãy can đảm đón nhận sự thật về mình. Hãy mở ra với chân lý khách quan, các giá trị thật và nội tâm hoá chúng để được biến đổi, tự do và trở nên con người mới trong Đức Kitô. Ước gì được như vậy trong năm học mới này!
[1] Tôma Aquinô, Summa Theologia, I q. 21 a. 2c.
[2] Joseph Ratzinger – Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, Đức Giêsu thành Nadarét, Phần II, Từ lúc vào Giêrusalem cho đến phục sinh, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội 2011, 233-234. 236.
[3] Ibidem. Cf. Tôma Aquinô, Summa Theologia, Iq 16 a. 5c
[4] Ibidem.
[5] Ibidem.
[6] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, Thư gửi các chủng sinh, 2010.
[7] x. James E. Sullivan, Hành trình tự do. Con đường tự trọng của linh mục và tu sĩ, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội 2013.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
2022
Càng gặp thử thách, ta càng cần bám chặt vào Chúa!
– Trong hai ngày vừa qua, ngày 19 & 20 tháng 9 năm 2022, nhóm anh chị em chúng tôi trong khóa tu nghiệp tại Mercy Center ở Colorado Springs[1] đã được hướng dẫn để đi tham quan cảnh trí thiên nhiên rất tuyệt vời của thành phố Colorado, với những thác nước cao vút và núi đồi hùng vĩ được phủ đầy bởi các cây thông cao chạy dài từ rặng núi này đến ngọn núi khác, tạo nên các cảnh trí thật đẹp tựa như các ngọn đồi thơ mộng nơi thành phố Đà Lạt ở Việt Nam.
Sáng nay tôi có dịp được đi bách bộ một mình trên con đường mòn dưới các rặng thông mọc trên các vách núi cheo leo. Trong khi đi bộ như thế, tôi nhìn ngắm cảnh vật xung quanh, với các vách núi cao thăm thẳm, tựa như muốn đụng vào áng mây đang trôi lơ lửng trên vòm trời xanh biếc. Tôi cảm thấy mình thật nhỏ bé trước thiên nhiên, trước những ngọn núi to lớn và nhìn thật vĩ đại đang đứng sừng sững trước mặt tôi. Vô tình tôi nhìn thấy những cây thông to lớn và cao vút nhưng lạ lùng thay rễ của nó lại có thể xuyên qua các khe núi và tìm cách đâm sâu vào lòng đất, nơi mà nó có thể phát triển và cắm rễ thật sâu hầu giữ cho thân cây của nó không bị lay chuyển và bị gãy mỗi khi có mưa to gió lớn.
Tôi hết sức ngạc nhiên trước sự kiện như vậy và để ghi lại những gì mà tôi đã tận mắt chứng kiến, tôi lấy cái máy điện thoại di động của tôi ra và chụp một số hình ảnh của các cây thông mà tôi nhìn thấy rễ của nó len lỏi qua các khe đá và đâm sâu vào lòng đất, để nếu ai có thắc mắc và đặt câu nghi vấn về những gì mà tôi đã mô tả ở trên, thì ít gì tôi cũng có bằng chứng cụ thể để chứng minh là tôi hoàn toàn nói sự thật.
Tôi đứng và chiêm ngắm các cây thông này với lòng thán phục, và tôi thực sự ngưỡng mộ sức sống mãnh liệt của chúng. Bởi vì các cây thông ấy đã lớn lên và phát triển trong một môi trường rất khó khăn, có thể nói là nghiệt ngã thì đúng hơn. Chúng không có đất để bám rễ cách bình thường và thoải mái, như các cây thông mà chúng ta thường trông thấy người ta trồng dọc theo hai bên vệ đường của các đại lộ sang trọng, hay tại các công viên quốc gia.
Tại các ngọn núi này, các cây thông ấy đã phải đâm rễ của chúng dọc theo các khe núi, nơi có các khe hở để rồi với thời gian lâu dài, rễ của chúng mới có thể tìm được một chỗ nào đó có đất, hầu có thể cắm sâu xuống và múc lấy các chất dinh dưỡng để nuôi thân cây, cho nó được phát triển thành các cây thông cao và to lớn.
Tôi nhìn ngắm thật say sưa các cây thông đang đứng sừng sững trước mắt tôi, và hiên ngang vươn vai lên tới tận vòm trời.
Tôi miên man suy nghĩ về sự phát triển kỳ diệu của các chú thông này… và rồi tự trong tâm trí tôi lóe lên một tia sáng nhằm giúp tôi hiểu được ý nghĩa và giá trị của đời sống thiêng liêng, cũng như cuộc sống bình thường mà mỗi chúng ta hay va chạm, đó chính là, càng gặp nhiều gian truân và thử thách, chúng ta càng phải bám chặt vào Chúa. Chỉ có như thế ta mới múc lấy sức sống mãnh liệt từ nơi Thiên Chúa là nguồn mạch của sự sống và của mọi ân sủng. Tôi vui mừng và sung sướng, vì Chúa đã khai tâm và mở lòng trí tôi ra để tôi có thể thấu hiểu những chân lý diệu kỳ về cuộc sống, mà đôi khi chính bản thân tôi, khi đương đầu với những nghịch cảnh hay với những khó khăn, tôi đã không cố gắng và nỗ lực để cho cái rễ của mình là mối tương quan giữa tôi và Thiên Chúa được bám chặt vào nhau và cho nó được phát triển, hầu có cắm sâu vào cung lòng của Thiên Chúa. Tôi vô cùng xúc động khi tôi khám phá ra rằng, để cho cây thông có thể phát triển to lớn và đứng vững, rễ của nó phải cắm sâu xuống mặt đất, nhưng đôi khi gặp toàn là núi đá, thì chúng cần phải len lỏi và xuyên qua các khe của núi đá, hầu rễ của nó mới có thể phát triển, rồi với thời gian đến một lúc nào đó, những cái rễ cái (hay rễ chính) này sẽ có thể đâm sâu vào lòng đất, và nhờ đó, mà nó có thể giữ cho thân cây không bị xiêu vẹo hay bị ngã, nhưng sẽ đứng thẳng và sẽ vươn vai lên tận trời cao.
Tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc, vì tôi đã khám phá ra cho chính mình một cách lý giải tuyệt vời cho những khúc mắc của chính bản thân, mỗi khi tôi phải đương đầu với những thử thách và đau khổ trong cuộc sống, từ những căn bệnh ốm đau đã khiến tôi có lần phải nằm trên giường bệnh cả 10 ngày mà không thể nhúc nhích đôi chân hay thân mình. Tôi đã không thể tự mình ra khỏi giường mà không cần đến sự giúp đỡ của người khác. Có những lần tôi bị đau lưng và không thể ra khỏi giường và đi đứng trong nhiều ngày. Những lúc như vậy, tôi thật sự chán nản và không còn tha thiết điều gì nữa, trái lại, tôi chỉ cầu xin Chúa và Đức Mẹ chữa tôi khỏi căn bệnh và cho tôi vượt qua được các cơn đau đớn trên thân xác, nhất là cái đau ở phần cuối lưng, để tôi có thể ra khỏi giường mà không cần ai đỡ tôi dậy, hay cảm thấy bị đau đớn mà không thể nào chịu đựng nổi. Sau những cơn đau đớn khủng khiếp như vậy, mỗi khi mà tôi bắt đầu có thể tự ra khỏi giường và không có cảm giác đau đớn, tôi rất vui mừng và sung sướng tột độ. Tôi hết lòng cảm tạ Thiên Chúa và Mẹ Thánh Maria đã cứu chữa tôi và cho tôi được phục hồi lại sức khỏe và có thể tự mình đi lại, mà không cần đến sự trợ giúp của người khác. Những lúc như vậy, tôi ý thức rất rõ rệt và nghiệm ra rằng: CHỈ CÓ SỨC KHỎE LÀ QUÝ GIÁ HƠN HẾT MỌI SỰ và “SỨC KHỎE LÀ VÀNG” như ông bà ta thường nói. Có sức khỏe là có tất cả. Ốm đau nằm một chỗ thì dù có nhiều tiền đi chăng nữa, thì cũng chả có ý nghĩa gì cả, vì khi ốm đau liệt giường thì ta cũng chẳng tha thiết và ham muốn điều gì nữa. Những ai đã trải qua kinh nghiệm đau ốm thì có lẽ sẽ đồng cảm và sẽ đồng thuận với những gì mà tôi chia sẻ ở đây.
Ốm đau, bệnh tật, thất bại, bị ruồng bỏ, bị khinh chê, bị xua đuổi… tất cả đều là những thử thách mà mỗi chúng ta cần phải vượt qua và lướt thắng. Nó giống như cây thông đang mọc rễ trên các vách núi đá và rễ của nó phải tìm cách xuyên qua hay mọc theo các khe đá để có thể duy trì sự sống, cho đến khi rễ của nó có thể đâm sâu và bám chặt vào lòng đất. Chúng ta cũng vậy, mỗi nghịch cảnh, mỗi thử thách đều là những cơ hội Chúa gởi đến để chúng ta biết cách cho rễ của mình ven theo các khe núi và có thể đâm sâu và bám chặt lấy Thiên Chúa. Cho nên càng gặp nhiều gian nan thử thách, chúng ta càng phải bám thật chặt vào Chúa và để cho rễ tình yêu của chúng ta được cắm sâu vào cung lòng của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Tôi muốn mượn lời của Thánh Vịnh 39 để kết thúc bài chia sẻ của mình.
Tv 39 (38)
Trong kiếp sống phù du, người đau yếu đặt hy vọng nơi ĐỨC CHÚA và xin Người đến cứu giúp
1Phần ca trưởng của ông Giơ-đu-thun. Thánh vịnh của vua Đa-vít.
2Tôi đã nói: “Mình phải giữ gìn trong nếp sống,
để khi ăn nói khỏi lỗi lầm ;
tôi quyết sẽ ngậm tăm, bao lâu người gian ác còn đối mặt.”
3Tôi câm lặng làm thinh chẳng hé môi,
mà không ích lợi gì, nên cơn đau lại càng nhức nhối.
4Nghe trong mình nung nấu tự tâm can,
càng nghĩ ngợi, lửa càng bừng cháy,
miệng lưỡi tôi phải thốt nên lời:
5“Lạy CHÚA, xin dạy cho con biết:
đời sống con chung cuộc thế nào,
ngày tháng con đếm được mấy mươi,
để hiểu rằng kiếp phù du là thế.
6Ấy tuổi đời con, Chúa đo cho một vài gang tấc,
kiếp sống này, Chúa kể bằng không.
Đứng ở đời, thật con người chỉ như hơi thở,
7thấp thoáng trên đường tựa bóng câu.
Công vất vả ngược xuôi: làn gió thoảng,
Ký cóp mà chẳng hay ai sẽ hưởng dùng.”
8Giờ đây con biết đợi trông gì, lạy Chúa,
hy vọng của con đặt ở nơi Ngài.
9Xin giải thoát khỏi vòng tội lỗi,
đừng để kẻ ngu đần thoá mạ con.
10Con câm miệng chẳng nói chẳng rằng,
vì chính Chúa đã làm như vậy.
11Xin Ngài thôi đừng đánh con nữa,
tay Ngài giáng xuống, thân này nát tan.
12Chúa trị tội nhằm sửa dạy con người,
điều họ tha thiết, Ngài làm tiêu tan như mối đục,
thật con người chỉ như hơi thở.
13Lạy CHÚA, xin nghe lời con nguyện cầu,
tiếng con kêu cứu, xin Ngài lắng tai nghe.
Con khóc lóc, xin đừng làm ngơ giả điếc,
vì con là thân khách trọ nhà Ngài,
phận lữ hành như hết thảy cha ông.
14Xin ngoảnh mặt đi cho lòng con thanh thoả,
trước lúc thân này phải ra đi và không còn nữa.
[1] Nhóm tu nghiệp của chúng tôi gồm có 3 linh mục và 8 nữ tu đến từ nhiều quốc gia.
Lm. Trần Mạnh Hùng
Mercy Center, Colorado Springs
Thứ Ba, ngày 20 tháng 9 năm 2022
2022
Khi cha mẹ không lưu tâm đến việc dạy con cái về sự trung thực
Cách đây nhiều năm, tôi có đọc một câu chuyện được đăng trên khắp các mặt báo và đã để lại nơi tôi một ấn tượng rất sâu sắc. Một cậu bé mồ côi từ khi còn nhỏ sống ở quận Madison. Khi lên 9 tuổi, cậu được một người nông dân tên là Marquette, nhận nuôi từ một cô nhi viện ở Milwaukee. Một thời gian sau khi được chính thức sống trong gia đình mới, cậu bé có dịp quan sát và thấy nơi người mẹ nuôi có một số hành vi rất tệ hại, và cậu nghĩ rằng bổn phận của mình là phải cho người cha nuôi của mình biết. Nhưng người phụ nữ đã kịch liệt phủ nhận lời cáo buộc đến độ người chồng tin rằng vợ mình đã bị vu oan. Sau đó, bà khăng khăng cho rằng cậu bé phải bị trừng phạt cho đến khi cậu rút lại những gì đã nói về bà; Người chồng liền treo cậu bé lên xà nhà và cầm roi quất liên tiếp gần hai tiếng đồng hồ, đến nỗi máu chảy ròng ròng trên mặt đất.
Cuối cùng, ông ta dừng lại và hỏi cậu bé rằng liệu cậu có còn cố chấp với những gì mình đã nói không. Cậu bé đáp lại “Thưa bố, con đã nói sự thật, và con không thể rút lại bằng cách nói dối”. Không mảy may động lòng, người vợ tàn nhẫn một mực nói rằng người chồng phải tiếp tục điều mà bà ta gọi là bổn phận giáo dục đứa con nuôi này. Để rồi, những trận đòn lại bắt đầu với cơn thịnh nộ mới, và tiếp diễn cho đến khi cậu bé đáng thương hầu như bị kiệt sức. Với chút sức lực còn lại, cậu bé thống thiết nài xin: “Bố ơi, con sắp chết rồi! Con đã nói sự thật!” Ngay sau đó, cậu bé tắt thở. Tòa án ở Madison đã tiếp nhận vụ việc. Hai vợ chồng người nông dân lần lượt bị kết án tội bạo hành và giết người. Còn cậu bé đáng thương đã được xem như là vị tử đạo vì đã ra sức bảo vệ sự thật.
Có lẽ từ đâu đó, cậu bé mồ côi ấy đã được dạy về giá trị của sự thật, và điều này có ý nghĩa đối với cậu hơn cả chính mạng sống. Ngày nay, thật đáng tiếc, trẻ em không coi trọng sự thật như vậy; Trên thực tế, nhiều trẻ em được dạy nói dối bởi chính cha mẹ của chúng.
Trung thực là một phẩm chất đạo đức khiến người ta phải nói sự thật trong mọi hoàn cảnh. Sự trung thực loại trừ mọi hành vi đạo đức giả và hai mặt, cũng thế, nó hướng người ta đến việc trung thành thực hiện những lời hứa của mình. Nói dối, một cách cơ bản, được định nghĩa là cố ý nói ngược lại với lẽ phải. Dã tâm của việc nói dối nằm ở chỗ nó liên quan đến việc sử dụng khả năng tự nhiên theo cách trực tiếp trái ngược với chủ đích hoặc mục đích tự nhiên. Do đó, nói dối thực chất là tội lỗi và bị cấm bởi điều răn thứ tám và nhiều giáo huấn Kinh thánh khác. Chẳng hạn như Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Một khi đã cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự thật với người thân cận, vì chúng ta là phần thân thể của nhau” (Ep 4, 25).
Không có cái gọi là kẻ nói dối bẩm sinh. Những kẻ dối trá được tạo ra chứ không phải được sinh ra. Nếu nhìn lại những ngày đầu tiên khi đức trẻ bắt đầu vận dụng trí khôn, cha mẹ sẽ thấy rằng, về bản chất, đứa trẻ luôn nói sự thật. Dần dà, có lẽ vì sự thiếu kiên nhẫn; sự thiếu hiểu biết về sự đồng cảm; cộng với sự thiếu óc tưởng tượng của cha mẹ, đứa trẻ bắt đầu nhận ra rằng tỉ lệ phần trăm về độ chính xác và sự thật ngày càng ít đi.
Ai cũng có thể nhận thấy rằng sự xuyên tạc là một điều luỹ tiến từ phía nhiều bậc cha mẹ. Sự xuyên tạc có thể được bắt đầu với câu chuyện về ông già Noel, về kiểu nói “Có ‘ông ngáo ộp’ trong tủ quần áo”, …. Có thể nói, những xuyên tạc ấy được thêu dệt với những nền tảng rất độc đáo.
Vậy phải làm sao, để có thể dạy con trẻ nói sự thật và tôn trọng sự thật?
Điều này phải được bắt đầu ngay từ những lời nói, hành vi của cha mẹ. Ví dụ:
Khi cha mẹ hứa sẽ để đèn trong phòng của trẻ khi trẻ đi ngủ, thì nên để đèn sáng. Nếu đã hứa “Mẹ sẽ ở ngay dưới nhà nếu con cần mẹ”, mà ngay sau đó, mẹ bỏ sang nhà hàng xóm ngồi tán gẫu. Nếu vậy, trẻ sẽ học trung thực như thế nào?
Khi đứa trẻ lớn hơn và xin vài ngàn để mua một cây kem và được nói rằng “Bố không có một đồng nào trong túi cả“, nhưng sau đó, người bố lại đưa tiền và sai đứa con đi mua cho mình bao thuốc lá! Có người nói dối ở đây, và đứa trẻ biết đó là ai!. Nếu một đứa trẻ được mẹ sai chạy ra cửa để trả lời rằng: “Mẹ cháu không có nhà”, trong khi đó, rõ ràng là người mẹ đang sấy tóc trong phòng! Vậy thì ai đang dạy ai nói dối?
Vấn đề càng trở nên tệ hại hơn, khi nhiều bậc cha mẹ làm cho việc nói thật trở thành một việc rất khó khăn.
Giả sử đứa trẻ vô tình làm vỡ chiếc bình mà bạn rất thích, và đứa trẻ sẵn sàng nhìn nhận hành động đó; thì cha mẹ cần khôn ngoan đủ để khen ngợi trẻ về sự trung thực và biết nhận lỗi, và sẵn sàng bỏ qua việc trẻ lỡ tay làm bể chiếc bình. Thật thế, chẳng có chiếc bình nào trên đời này xứng với giá của sự thật!
Còn nếu bạn ngớ ngẩn, đúng ra là ngu ngốc, để vung tay tát cho đứa trẻ, vì đã nói ra sự thật là nó làm bể chiếc bình. Rất có thể, từ rày về sau, để tránh bị la mắng hoặc đánh đập, đứa trẻ sẽ tìm cách nói dối! Nều đúng nhu thế, thì vô hình trung, bạn đã dạy cho con mình rằng nói ra sự thật lại rất rủi ro, vậy tại sao phải bận tâm?
Trong trường hợp khác, khi có bằng chứng cho thấy đứa trẻ nói dối, bạn liền nổi nóng, phùng mang trợn mắt để quát tháo, đe nẹt, thậm chí đánh đập đứa trẻ, thì đây thật sự là một cách rất kém để cho trẻ nhận ra hành vi sai trái của nó. Trái lại, bạn hãy bình tĩnh giải thích và cho trẻ hình dung là gia đình, thế giới sẽ rơi vào trạng thái khủng khiếp như thế nào nếu mọi người nói dối. Nhắc trẻ về điều răn thứ tám, không cho phép nói dối….
Ngoài ra, bạn cũng có thể kể cho trẻ về mẫu gương của những vị Thánh sống trung thực, mà Hạnh Thánh Anrê Avellino (1521-1608) là một ví được. Là người thông thái, có bằng cấp về luật dân sự, cha Avellino người bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một linh mục trạng sư ở Naples. Một ngày nọ, đang rất nóng lòng muốn thắng một vụ án, dù không quan trọng lắm, cha Avellino cho phép mình đưa ra một tuyên bố mà cha biết là sai sự thật. Sau đó, khi đọc Kinh thánh, cha bắt gặp những lời này trong sách Khôn ngoan 1, 11: “Ăn gian nói dối giết hại linh hồn”. Cha Avellino đã rất hối hận đến độ cha từ bỏ công việc của mình tại tòa án pháp luật để dành thời gian còn lại cho việc chăm sóc các linh hồn.
***
Ở một khía cạnh, con cái chính là tấm gương phản chiếu của cha mẹ.
– Có những lời nói không đúng sự thật cha mẹ nói với con, nói trước mặt con mà cha mẹ tưởng là vô hại;
– Có những thói quen đi ngược lại những gì đã hứa với trẻ, mà cha mẹ tưởng là chuyện nhỏ, không quan trọng;
– Có những cách hành xử thiếu kiên nhẫn, thiếu tinh tế, đến độ độc đoán… mà cha mẹ cho là cần thiết khi dạy trẻ
thì lại đã trở thành nguyên cớ khiến trẻ không biết đâu là sự thật; nói sai sự thật; không dám nói sự thật.
Phải chăng, để trẻ dám nghĩ đúng, nói đúng, làm đúng với sự thật, với lẽ phải, với giới răn của Chúa, cha mẹ cũng hãy bắt đầu làm những điều đó ngay trong từng chi tiết của cuộc sống hàng ngày?
Lm. Charles Hugo Doyle
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
2022
5 Lý do nên đọc Lời Chúa hằng ngày
5 Lý do nên đọc Lời Chúa hằng ngày
Điều này phần nào cho thấy rằng hiện nay nhiều người, và đặc biệt là những người trẻ, đang tìm kiếm một thứ gì đó hơn nữa. Chúng ta tìm kiếm ý nghĩa, mục đích, điều mới lạ. Nói một cách căn bản hơn, chúng ta tìm kiếm một câu chuyện – một câu chuyện có thật – có thể giúp chúng ta hiểu tại sao thế giới lại như vậy, và chúng ta đang đứng ở đâu trong thế giới ấy. Là một người Công giáo, tôi tin rằng Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta câu chuyện có thật đó, vì vậy đây là 5 lý do tại sao chúng ta nên đọc Kinh Thánh hằng ngày.
1. Lời Chúa dạy chúng ta về chúng ta là ai
Ngày nay, sống trong một thế giới có quá nhiều sự mồ côi về thể chất và tinh thần, không ít người trong chúng ta thấy bối rối khi không biết mình là ai, và mình ở đây để làm gì. Là Lời thánh và được linh hứng từ Thiên Chúa, Kinh Thánh giúp chúng ta giải đáp những khát vọng sâu xa nhất trong lòng mình. Kinh Thánh dạy chúng ta rằng chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (St 1, 27), và Thiên Chúa yêu chúng ta nhiều đến nỗi, dù chúng ta có làm gì, thì vẫn chẳng bao giờ có thể thoát khỏi sự hiện diện của Ngài (Tv 139, 9-10). Kinh Thánh dạy chúng ta rằng căn tính của chúng ta không phụ thuộc vào địa vị xã hội, hoàn cảnh gia đình, sự giàu có, sức khỏe thể chất, hoặc thành tích của chúng ta. Thay vào đó, chúng ta được xác định, trước hết và trên hết, bởi tình yêu của Chúa Cha dành cho chúng ta. Ngài là Đấng ban tặng cho chúng ta căn tính, và mạc khải về ý nghĩa cuộc đời của chúng ta.
2. Lời Chúa đòi hỏi chúng ta nên trọn vẹn hơn
Với quá nhiều sai lạc đang diễn ra trong Giáo hội và trên thế giới khiến người ta dễ cảm thấy tuyệt vọng. Đôi khi chúng ta có thể tự hỏi liệu sự thánh thiện có thực tế không, có lẽ đừng bận tâm đến ước muốn nên thánh nữa. Tuy nhiên, bài học quan trọng mà Kinh Thánh đem lại cho chúng ta đó là nên thánh không chỉ là điều khả thi mà còn là điều cốt yếu! Trong Bài giảng trên núi, Đức Giêsu đưa ra lời mời gọi và yêu cầu: “Các con hãy nên hoàn thiện, như Cha các con trên trời là Ðấng hoàn thiện” (Mt 5, 48). Từ “hoàn thiện” trong tiếng Hy Lạp trong ngữ cảnh này là teleios, có liên quan đến từ “teleological” trong tiếng Anh, nhằm nói đến mục đích hoặc mục tiêu. Nói cách khác, khi mời gọi chúng ta nên hoàn thiện, Đức Giêsu thực sự đòi hỏi chúng ta nên hoàn thiện đúng với con người mà chúng ta được dự định để trở thành. Việc đọc Lời Chúa mỗi ngày giúp chúng ta hiểu ý nghĩa của việc trở nên môn đệ trọn vẹn hơn của Đức Giêsu Kitô, và một phiên bản trọn vẹn hơn của chính mình.
3. Lời Chúa chứa đựng sức mạnh thiêng liêng đích thực
Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái mô tả Sách Thánh là “lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi” (Dt 4, 12). Có lẽ đôi khi chúng ta rất khó để tin vào điều này, nhất là khi chúng ta thường xuyên tham dự Thánh lễ trong nhiều năm, và có cảm giác như chúng ta đã nghe những câu chuyện giống nhau hàng nghìn lần trước đây. Nhưng thường thì hội chứng “quen quá hoá nhàm” này là triệu chứng của sự lười biếng nghiêm trọng về mặt thiêng liêng và trí tuệ của chúng ta. Sự thật là Lời Chúa luôn sống động và hoạt động, và nếu chúng ta dành cả cuộc đời để đọc và nghiên cứu thì cũng chỉ mới tiếp xúc được với bề mặt của chiều sâu và sức mạnh khôn lường của nó. Việc nuôi dưỡng thói quen tiếp xúc với Kinh Thánh hằng ngày giúp chúng ta nhận ra thực tế này, và nhắc nhở chúng ta rằng, nếu chúng ta muốn thay đổi cuộc đời của mình, và thậm chí muốn thay đổi thế giới, chúng ta cần bắt đầu bằng việc lắng nghe những gì Thiên Chúa nói với chúng ta.
4. Lời Chúa đưa ra phương thuốc chữa trị đối với sự hỗn loạn của thế giới
Với quá nhiều hỗn độn, tuyệt vọng, và chia rẽ trong thế giới ngày nay, Lời Chúa mang lại một ốc đảo của bình an và niềm vui mà tự thâm sâu ai trong chúng ta cũng khao khát. Một trong những điều tuyệt vời về Sách Thánh đó là Lời Chúa không bao giờ là một thực tại đường mật. Bạn chỉ cần nhìn vào hình ảnh của ông Gióp trong Cựu Ước, hoặc đồi Can-vê trong Tân Ước, để nhận ra vấn đề. Kinh Thánh là một bộ sưu tập sách trọn vẹn về con người theo cùng một cách mà Đức Giêsu là một con người trọn vẹn. Kinh Thánh đi vào tình trạng hỗn độn của thế giới, giống như Đức Kitô đón nhận sự hỗn loạn của nhân loại. Giống như Đức Kitô, Kinh Thánh cũng chứa đựng điều thánh thiêng bên trong, và đó là điều khiến Kinh Thánh trở nên thật phi thường. Việc đọc Lời Chúa giúp lấp đầy chúng ta với đức cậy vô song của Kitô giáo. Đức cậy mang lại cho chúng ta viễn cảnh về cuộc sống phong phú hơn nhưng không lạc quan ngây thơ, vì nhận ra rằng hành trình dương thế của chúng ta có thể gian nan, nhưng vì biết được đích đến của mình, nên những đau đớn, khổ sở có giá trị nhất định của nó, và Kinh thánh luôn có đó để dạy chúng ta về điều này.
5. Lời Chúa giúp chúng ta gặp gỡ Con người Đức Kitô
Việc hằng ngày tiếp xúc với Lời Chúa được viết ra giúp chúng ta gặp gỡ Lời hằng sống của Thiên Chúa – Đức Giêsu Kitô – trong cầu nguyện và trong Thánh Thể cách trọn vẹn hơn. Dom Celestin Charlier, một tu sĩ Biển Đức người Pháp, từng nói rằng trong kinh nghiệm hằng ngày của chúng ta như là Kitô hữu, Thánh Thể là sự sống, và Sách Thánh là ánh sáng. Chúng ta không thể coi nhẹ cái này hay cái kia. Bằng việc kết hợp cả hai, chúng ta mở lòng để tiếp cận Đức Giêsu theo những cách thức mới mẻ và thú vị. Giống như bất kỳ người bạn thân thiết nào, Đức Giêsu muốn lắng nghe những nhu cầu của chúng ta, nhưng hơn thế, Người cũng muốn đáp ứng những nhu cầu đó bằng cách chia sẻ trái tim của Người cho chúng ta. Đắm mình hằng ngày trong Lời Chúa là một trong những cánh cửa thiết yếu dẫn chúng ta đến trái tim tràn đầy tình yêu ấy.
Tác giả: Clement Harrold
Chuyển ngữ: Nt. Anna Ngọc Diệp, OP – Dòng Đa Minh Thánh Tâm